Friday, December 11, 2015

Ý NGHĨA, HẠN CHẾ VÀ TÁC ĐÔNG CỦA CÁC CUỘC CÁCH MẠNG TƯ SẢN THỜI CẬN ĐẠI

- Ý nghĩa của cuộc cách mạng tư sản
            Các cuộc Cách mạng tư sản có tần suất ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của lịch sử thế giới. Trước hết, nó xác lập sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến trên phạm vi thế giới, mở ra một thời đại mới của lịch sử loài người – thời cận đại.

Sự thắng lợi đó mang lại cho giai cấp tư sản những bước đi vững chắc trong việc thúc đẩy nền kinh tế tư bản phát triển. Muốn tồn tại và phát triển thì giai cấp tư sản phải “luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất” [1]. Do vậy, ngay sau khi nắm quyền lực trong bộ máy nhà nước, giai cấp tư sản buộc phải tiến hành cuộc các mạng công nghiệp mà khởi đầu là nước Anh, sau đó lan rộng ra toàn bộ Âu – Mỹ.  Điều này dẫn đến những thay đổi quan trọng về kĩ thuật và xã hội.
            Về mặt kĩ thuật, đó sự phát minh, sáng chế ra máy móc trong công nghiệp, như: máy dệt vào những năm 80 của thế kỷ XVIII, máy hơi nước được sáng chế vào năm 1784, các nhà máy sử dụng máy hơi nước được xây dựng vào những năm 80 của thế kỷ XVIII, tàu chạy bằng hơi nước vào năm 1814… Những phát minh, sáng chế đã đưa sản xuất từ công trường thủ công chuyển sang máy móc trong các công xưởng.
            Về mặt xã hội, đã hình thành hai giai cấp cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa – giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản.
            Ngoài điều vừa trình bày ở trên, mỗi cuộc cách mạng đều giữ vị trí và ý nghĩa nhất định đến sự phát triển của nước mình và thế giới.
Cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Nederland vào thế kỷ XVI là cuộc Cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới. Nó đã lật đổ ách thống trị của vương triều phong kiến Tây Ban Nha, khai sinh ra nhà nước tư sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Nó đã quét sạch những vật cản của chế độ phong kiến chuyên chế phản động Tây Ban Nha, tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hà Lan trở thành cường quốc hàng đầu về thương mại và thuộc địa của châu Âu và thế giới lúc bấy giờ. Sự thắng lợi của Cách mạng tư sản Hà Lan đánh dấu sự khởi đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới: thời đại các cuộc Cách mạng tư sản và suy vong của chế độ phong kiến.
            Cuộc Cách mạng tư sản Anh vào thế kỷ XVII đã lật đổ quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời cùng với nền thống trị của quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh, xác lập chế độ xã hội mới tiến bộ hơn – tư bản chủ nghĩa, mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
            Cách mạng tư sản Anh không chỉ có ý nghĩa đối với nước Anh mà còn có ảnh hưởng sâu rộng tới châu Âu nói riêng và thế giới nói chung. Marx đã nhận xét rằng cuộc Cách mạng Anh thế kỷ XVII và Cách mạng Pháp 1789 như sau: “Các cuộc cách mạng 1648 và 1789 không phải là những cuộc cách mạng Anh và Pháp; đó là những cuộc cách mạng theo phong cách châu Âu. Chúng không phải là thắng lợi của một giai cấp nhất định của xã hội đối với chế độ chính trị cũ; mà chúng là sự tuyên bố một chế độ chính trị cho xã hội mới ở châu Âu. Trong các cuộc cách mạng đó, giai cấp tư sản đã thắng lợi; nhưng lúc bấy giờ, thắng lợi của giai cấp tư sản có nghĩa là thắng lợi của một chế độ xã hội mới, thắng lợi của chế độ sở hữu tư sản đối với chế độ sở hữu phong kiến, của tính dân tộc đối với tính địa phương, của tính cạnh tranh đối với chế độ phường hội, của việc phân nhỏ sở hữu đối với chế độ con trưởng, của sự thống trị của kẻ sở hữu ruộng đất đối với sự thống trị mà ruộng đất đã đem lại cho kẻ sở hữu, của sự khai sáng đối với sự mê tín, của gia đình đối với tên của dòng họ, của sự tháo vát đối với sự lười biếng anh hùng, của pháp quyền tư sản đối với những đặc quyền thời trung cổ” [2].
            Sự thắng lợi của cuộc Cách mạng tư sản mang tầm vóc châu Âu này đã dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Anh, tạo điều kiện cho nước Anh giành bá quyền thế giới về công thương nghiệp và thuộc địa. Gần một thế kỷ sau, trên đất nước Anh lại diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, làm thay đổi bộ mặt nước Anh và thế giới. Nền dân chủ tư sản mà cách mạng Anh mang lại đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới châu Âu và Bắc Mỹ, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh chống phong kiến, chống áp bức của nhiều dân tộc.
            Tuy nhiên, do lực lượng lãnh đạo cách mạng là liên minh giai cấp tư sản – quý tộc mới, cho nên cuộc Cách mạng tư sản Anh còn nhiều hạn chế (như không xóa bỏ triệt để thế lực phong kiến, không giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân nghèo).
            Trải qua hơn 8 năm chiến đấu của nhân dân (1775 - 1783), cuộc Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ đã giành được thắng lợi. Đây là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn. Kết quả lớn nhất là xóa bỏ nền thống trị của thực dân Anh, giành độc lập hoàn toàn cho các bang, khai sinh ra quốc gia dân tộc tư sản đầu tiên ở châu Mỹ.
            Tuy về hình thức, đây là một cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, nhưng về bản chất lại là cuộc Cách mạng tư sản lần thứ nhất của nước Mỹ. Bởi lẽ, cuộc chiến tranh không chỉ giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nó còn giải quyết những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của một cuộc cách mạng dân chủ tư sản: thủ tiêu nền thống trị của giai cấp quý tộc địa chủ Anh, xóa bỏ sự tồn tại của những hình thức bóc lột tiền phong kiến và những yếu tố phong kiến trong nông nghiệp, mở đường cho sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
            Theo K. Marx, “Cuộc chiến giành độc lập của nhân dân Bắc Mỹ là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với giai cấp tư sản châu Âu, trước hết đã góp phần thúc đẩy cuộc Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ vào cuối thế kỷ XVIII” [3]. Đồng thời, nó còn cổ vũ nhân dân sinh sống ở khu vực Mỹ latinh - đang rên xiết dưới ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đứng lên đấu tranh giành độc lập.  
Cách mạng Pháp 1789 mà đỉnh cao là nền chuyên chính dân chủ cách mạng Jacobin đã thực hiện khá triệt để các nhiệm vụ của một cuộc Cách mạng tư sản và dân chủ. Cuộc cách mạng vĩ đại này đã lật đổ nền quân chủ chuyên chế phong kiến cùng với mọi quan hệ và lề thói thối nát của nó đã từng ngự trị ở Pháp nhiều thế kỷ. Đồng thời nó còn tuyên bố một chế độ chính trị của xã hội mới ở châu Âu với cơ cấu tổ chức mới cùng với các quyền tự do dân chủ. Người nông dân được giải phóng khỏi các nghĩa vụ phong kiến và thuế một phần mười (thuế thập phân) của Nhà thờ, vấn đề ruộng đất được giải quyết tương đối thỏa đáng, tạo cơ sở cho sự hình thành một tầng lớp nông dân tiểu tư hữu đông đảo.
Cách mạng tư sản Pháp đã xóa bỏ những cản trở đối với công thương nghiệp như hàng rào thuế quan, các phường hội phong kiến, mọi hạn chế của vương quyền đều bị bãi bỏ, thị trường dân tộc thống nhất được hình thành, mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa Pháp phát triển mạnh mẽ. Những tập quán riêng của các tỉnh, những đặc quyền địa phương cũng bị xóa bỏ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình hình thành dân tộc Pháp, một quốc gia dân tộc hiện đại đã xuất hiện trên bản đồ chính trị châu Âu.
            Cách mạng 1789 về cơ bản đã quét sạch rác rưởi của chế độ phong kiến ở Pháp và ảnh hưởng của nó cũng góp phần làm cho chế độ phong kiến bị lung lay ở khắp châu Âu. Cách mạng tư sản Pháp mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, thời đại thắng lợi và củng cố của chủ nghĩa tư bản ở những nước tiên tiến châu Âu và châu Mỹ.
            Giai cấp tư sản Pháp đã lãnh đạo cách mạng thành công, song cách mạng thắng lợi lại nhờ một phần rất quan trọng bởi sự tham gia tích cực, với tinh thần dũng cảm, kiên cường của đông đảo quần chúng nhân dân. Chính quần chúng nhân dân là lực lượng đóng vai trò nòng cốt trong việc tao ra các biến cố lịch sử (14-7-1789, 10-8-1792, 31-5 và 2-6-1793). Dưới áp lực của quần chúng nhân dân, cách mạng đã phát triển đi lên đỉnh cao nhất của nó – nền chuyên chính dân chủ cách mạng Jacobin (từ 2-6-1793 đến 27-7-1794).
            Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử toàn thế giới, suốt thế kỷ XIX. Thông qua các hành động chống lại trật tự thế giới mới, Cách mạng Pháp đã thức tỉnh những lực lượng dân chủ và tiến bộ khắp các châu lục dũng cảm đứng dậy chống lại chế độ phong kiến chuyên chế, chống lại ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân. Chính vì vậy, đây là một cuộc cách mạng có ảnh hưởng sâu rộng, có ý nghĩa quốc tế lớn lao. Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã được V.I. Lenin gọi là cuộc “Đại cách mạng”.
            Quá trình thống nhất Đức là một sự kiện lịch sử tiến bộ, vì nó mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Đức, đưa Đức lên hàng các quốc gia tiên tiến trên thế giới, góp phần làm thay đổi cán cân lực lượng ở châu Âu và thế giới trong những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, con đường thống nhất “từ trên xuống” bằng các cuộc chiến tranh là phản dân chủ, phản cách mạng. Kể từ sau năm 1871, nước Đức tư sản – Iunker luôn luôn là một thành trì phản động, một nguồn gốc quan trọng nhất của chủ nghĩa quân phiệt xâm lược hiếu chiến, một lò lửa của các cuộc chiến tranh thế giới sau này.
            Cuộc Nội chiến 1861 - 1865 là cuộc cách mạng giải phóng xã hội tiếp theo cuộc chiến tranh giành độc lập. Về bản chất, nó là cuộc Cách mạng tư sản lần thứ hai trong lịch sử nước Mỹ. Giai cấp tư sản công nghiệp miền Bắc đã biết dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng nhân dân để tiêu diệt chế độ nô lệ miền Nam, dọn đường cho công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ hơn; đồng thời còn đảm bảo cho sự thắng lợi của con đường phát triển kiểu Mỹ trong nông nghiệp. Nhờ vậy, khoảng 30 năm sau cuộc Nội chiến, nước Mỹ đã vượt các nước châu Âu, vươn lên đứng đầu thế giới về công nghiệp.
            Cuộc Minh Trị Duy tân là một mốc lớn trong lịch sử Nhật Bản. Nó có tính chất, ý nghĩa của một cuộc Cách mạng tư sản, bởi vì xóa bỏ những cản trở của chế độ phong kiến để xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa làm cho Nhật thoát khỏi vòng nô dịch của tư bản nước ngoài, rồi chuyển lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
            Cách mạng Tân Hợi có ý nghĩa to lớn, vì nó kết thúc nền thống trị hàng nghìn năm của chế độ quân chủ phong kiến, làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng thấm sâu vào nhân dân Trung Quốc. Tư tưởng Trung Sơn và Cách mạng Tân Hợi cũng có ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á.
- Ảnh hưởng Ý nghĩa của cuộc cách mạng tư sản
            Các cuộc Cách mạng tư sản có tần suất ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của lịch sử thế giới. Trước hết, nó xác lập sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến trên phạm vi thế giới, mở ra một thời đại mới của lịch sử loài người – thời cận đại. Sự thắng lợi đó mang lại cho giai cấp tư sản những bước đi vững chắc trong việc thúc đẩy nền kinh tế tư bản phát triển. Muốn tồn tại và phát triển thì giai cấp tư sản phải “luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất” [4]. Do vậy, ngay sau khi nắm quyền lực trong bộ máy nhà nước, giai cấp tư sản buộc phải tiến hành cuộc các mạng công nghiệp mà khởi đầu là nước Anh, sau đó lan rộng ra toàn bộ Âu – Mỹ.  Điều này dẫn đến những thay đổi quan trọng về kĩ thuật và xã hội.
            Về mặt kĩ thuật, đó sự phát minh, sáng chế ra máy móc trong công nghiệp, như: máy dệt vào những năm 80 của thế kỷ XVIII, máy hơi nước được sáng chế vào năm 1784, các nhà máy sử dụng máy hơi nước được xây dựng vào những năm 80 của thế kỷ XVIII, tàu chạy bằng hơi nước vào năm 1814… Những phát minh, sáng chế đã đưa sản xuất từ công trường thủ công chuyển sang máy móc trong các công xưởng.
            Về mặt xã hội, đã hình thành hai giai cấp cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa – giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản.
            Ngoài điều vừa trình bày ở trên, mỗi cuộc cách mạng đều giữ vị trí và ý nghĩa nhất định đến sự phát triển của nước mình và thế giới.
Cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Nederland vào thế kỷ XVI là cuộc Cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới. Nó đã lật đổ ách thống trị của vương triều phong kiến Tây Ban Nha, khai sinh ra nhà nước tư sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Nó đã quét sạch những vật cản của chế độ phong kiến chuyên chế phản động Tây Ban Nha, tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hà Lan trở thành cường quốc hàng đầu về thương mại và thuộc địa của châu Âu và thế giới lúc bấy giờ. Sự thắng lợi của Cách mạng tư sản Hà Lan đánh dấu sự khởi đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới: thời đại các cuộc Cách mạng tư sản và suy vong của chế độ phong kiến.
            Cuộc Cách mạng tư sản Anh vào thế kỷ XVII đã lật đổ quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời cùng với nền thống trị của quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh, xác lập chế độ xã hội mới tiến bộ hơn – tư bản chủ nghĩa, mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
            Cách mạng tư sản Anh không chỉ có ý nghĩa đối với nước Anh mà còn có ảnh hưởng sâu rộng tới châu Âu nói riêng và thế giới nói chung. Marx đã nhận xét rằng cuộc Cách mạng Anh thế kỷ XVII và Cách mạng Pháp 1789 như sau: “Các cuộc cách mạng 1648 và 1789 không phải là những cuộc cách mạng Anh và Pháp; đó là những cuộc cách mạng theo phong cách châu Âu. Chúng không phải là thắng lợi của một giai cấp nhất định của xã hội đối với chế độ chính trị cũ; mà chúng là sự tuyên bố một chế độ chính trị cho xã hội mới ở châu Âu. Trong các cuộc cách mạng đó, giai cấp tư sản đã thắng lợi; nhưng lúc bấy giờ, thắng lợi của giai cấp tư sản có nghĩa là thắng lợi của một chế độ xã hội mới, thắng lợi của chế độ sở hữu tư sản đối với chế độ sở hữu phong kiến, của tính dân tộc đối với tính địa phương, của tính cạnh tranh đối với chế độ phường hội, của việc phân nhỏ sở hữu đối với chế độ con trưởng, của sự thống trị của kẻ sở hữu ruộng đất đối với sự thống trị mà ruộng đất đã đem lại cho kẻ sở hữu, của sự khai sáng đối với sự mê tín, của gia đình đối với tên của dòng họ, của sự tháo vát đối với sự lười biếng anh hùng, của pháp quyền tư sản đối với những đặc quyền thời trung cổ” [5].
            Sự thắng lợi của cuộc Cách mạng tư sản mang tầm vóc châu Âu này đã dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Anh, tạo điều kiện cho nước Anh giành bá quyền thế giới về công thương nghiệp và thuộc địa. Gần một thế kỷ sau, trên đất nước Anh lại diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, làm thay đổi bộ mặt nước Anh và thế giới. Nền dân chủ tư sản mà cách mạng Anh mang lại đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới châu Âu và Bắc Mỹ, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh chống phong kiến, chống áp bức của nhiều dân tộc.
            Tuy nhiên, do lực lượng lãnh đạo cách mạng là liên minh giai cấp tư sản – quý tộc mới, cho nên cuộc Cách mạng tư sản Anh còn nhiều hạn chế (như không xóa bỏ triệt để thế lực phong kiến, không giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân nghèo).
            Trải qua hơn 8 năm chiến đấu của nhân dân (1775 - 1783), cuộc Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ đã giành được thắng lợi. Đây là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn. Kết quả lớn nhất là xóa bỏ nền thống trị của thực dân Anh, giành độc lập hoàn toàn cho các bang, khai sinh ra quốc gia dân tộc tư sản đầu tiên ở châu Mỹ.
            Tuy về hình thức, đây là một cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, nhưng về bản chất lại là cuộc Cách mạng tư sản lần thứ nhất của nước Mỹ. Bởi lẽ, cuộc chiến tranh không chỉ giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nó còn giải quyết những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của một cuộc cách mạng dân chủ tư sản: thủ tiêu nền thống trị của giai cấp quý tộc địa chủ Anh, xóa bỏ sự tồn tại của những hình thức bóc lột tiền phong kiến và những yếu tố phong kiến trong nông nghiệp, mở đường cho sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
            Theo K. Marx, “Cuộc chiến giành độc lập của nhân dân Bắc Mỹ là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với giai cấp tư sản châu Âu, trước hết đã góp phần thúc đẩy cuộc Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ vào cuối thế kỷ XVIII” [6]. Đồng thời, nó còn cổ vũ nhân dân sinh sống ở khu vực Mỹ latinh - đang rên xiết dưới ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đứng lên đấu tranh giành độc lập.  
Cách mạng Pháp 1789 mà đỉnh cao là nền chuyên chính dân chủ cách mạng Jacobin đã thực hiện khá triệt để các nhiệm vụ của một cuộc Cách mạng tư sản và dân chủ. Cuộc cách mạng vĩ đại này đã lật đổ nền quân chủ chuyên chế phong kiến cùng với mọi quan hệ và lề thói thối nát của nó đã từng ngự trị ở Pháp nhiều thế kỷ. Đồng thời nó còn tuyên bố một chế độ chính trị của xã hội mới ở châu Âu với cơ cấu tổ chức mới cùng với các quyền tự do dân chủ. Người nông dân được giải phóng khỏi các nghĩa vụ phong kiến và thuế một phần mười (thuế thập phân) của Nhà thờ, vấn đề ruộng đất được giải quyết tương đối thỏa đáng, tạo cơ sở cho sự hình thành một tầng lớp nông dân tiểu tư hữu đông đảo.
Cách mạng tư sản Pháp đã xóa bỏ những cản trở đối với công thương nghiệp như hàng rào thuế quan, các phường hội phong kiến, mọi hạn chế của vương quyền đều bị bãi bỏ, thị trường dân tộc thống nhất được hình thành, mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa Pháp phát triển mạnh mẽ. Những tập quán riêng của các tỉnh, những đặc quyền địa phương cũng bị xóa bỏ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình hình thành dân tộc Pháp, một quốc gia dân tộc hiện đại đã xuất hiện trên bản đồ chính trị châu Âu.
            Cách mạng 1789 về cơ bản đã quét sạch rác rưởi của chế độ phong kiến ở Pháp và ảnh hưởng của nó cũng góp phần làm cho chế độ phong kiến bị lung lay ở khắp châu Âu. Cách mạng tư sản Pháp mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, thời đại thắng lợi và củng cố của chủ nghĩa tư bản ở những nước tiên tiến châu Âu và châu Mỹ.
            Giai cấp tư sản Pháp đã lãnh đạo cách mạng thành công, song cách mạng thắng lợi lại nhờ một phần rất quan trọng bởi sự tham gia tích cực, với tinh thần dũng cảm, kiên cường của đông đảo quần chúng nhân dân. Chính quần chúng nhân dân là lực lượng đóng vai trò nòng cốt trong việc tao ra các biến cố lịch sử (14-7-1789, 10-8-1792, 31-5 và 2-6-1793). Dưới áp lực của quần chúng nhân dân, cách mạng đã phát triển đi lên đỉnh cao nhất của nó – nền chuyên chính dân chủ cách mạng Jacobin (từ 2-6-1793 đến 27-7-1794).
            Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử toàn thế giới, suốt thế kỷ XIX. Thông qua các hành động chống lại trật tự thế giới mới, Cách mạng Pháp đã thức tỉnh những lực lượng dân chủ và tiến bộ khắp các châu lục dũng cảm đứng dậy chống lại chế độ phong kiến chuyên chế, chống lại ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân. Chính vì vậy, đây là một cuộc cách mạng có ảnh hưởng sâu rộng, có ý nghĩa quốc tế lớn lao. Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã được V.I. Lenin gọi là cuộc “Đại cách mạng”.
            Quá trình thống nhất Đức là một sự kiện lịch sử tiến bộ, vì nó mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Đức, đưa Đức lên hàng các quốc gia tiên tiến trên thế giới, góp phần làm thay đổi cán cân lực lượng ở châu Âu và thế giới trong những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, con đường thống nhất “từ trên xuống” bằng các cuộc chiến tranh là phản dân chủ, phản cách mạng. Kể từ sau năm 1871, nước Đức tư sản – Iunker luôn luôn là một thành trì phản động, một nguồn gốc quan trọng nhất của chủ nghĩa quân phiệt xâm lược hiếu chiến, một lò lửa của các cuộc chiến tranh thế giới sau này.
            Cuộc Nội chiến 1861 - 1865 là cuộc cách mạng giải phóng xã hội tiếp theo cuộc chiến tranh giành độc lập. Về bản chất, nó là cuộc Cách mạng tư sản lần thứ hai trong lịch sử nước Mỹ. Giai cấp tư sản công nghiệp miền Bắc đã biết dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng nhân dân để tiêu diệt chế độ nô lệ miền Nam, dọn đường cho công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ hơn; đồng thời còn đảm bảo cho sự thắng lợi của con đường phát triển kiểu Mỹ trong nông nghiệp. Nhờ vậy, khoảng 30 năm sau cuộc Nội chiến, nước Mỹ đã vượt các nước châu Âu, vươn lên đứng đầu thế giới về công nghiệp.
            Cuộc Minh Trị Duy tân là một mốc lớn trong lịch sử Nhật Bản. Nó có tính chất, ý nghĩa của một cuộc Cách mạng tư sản, bởi vì xóa bỏ những cản trở của chế độ phong kiến để xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa làm cho Nhật thoát khỏi vòng nô dịch của tư bản nước ngoài, rồi chuyển lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
            Cách mạng Tân Hợi có ý nghĩa to lớn, vì nó kết thúc nền thống trị hàng nghìn năm của chế độ quân chủ phong kiến, làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng thấm sâu vào nhân dân Trung Quốc. Tư tưởng Trung Sơn và Cách mạng Tân Hợi cũng có ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á.
của cách mạng tư sản
            Các cuộc Cách mạng tư sản thời cận đại đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo thế giới. Trước hết là xác lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khiến cho giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả thế hệ trước gộp lại. Không những vậy, nó tạo ra nền dân chủ và các thể chế nhà nước. Đó là một bước tiến vĩ đại trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
            Các cuộc Cách mạng tư sản diễn ra liên tiếp nhau, tạo thành chuỗi dây chuyền, cái sau kế tiếp cái trước, cái nọ kế tiếp cái kia để cuối cùng thay đổi bề mặt hành tinh.
            Cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Nederland vào thế kỷ XVI là cuộc cách mạng tư sản. Nó đã khai sinh ra nhà nước tư sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Thể chế nhà nước quân chủ lập hiến. Mô hình nhà nước này chứa đựng những dấu hiệu của một nền dân chủ đại nghị sau cuộc cách mạng tư sản là một sự tiến bộ trong đời sống chính trị châu Âu khi đó. Mô hình này đã ảnh hưởng đến tiến trình cách mạng tư sản Anh, sau đó cũng như thiết chế nhà nước tư sản của nhiều quốc gia trên thế giới.
            Cuộc Cách mạng tư sản Anh thành công đã có sức lan tỏa đối với lục địa châu Âu. Nó đã khai sinh ra chế độ dân chủ dưới hình thức tam quyền phân lập. Đây là sự gợi ý thực tiễn cho Montesquieu sáng lập ra học thuyết tam quyền phân lập. Mô hình nhà nước thời cận đại phỏng theo nguyên tắc này là một sáng tạo vĩ đại của loài người lúc bấy giờ; Sự thành công của Cách mạng tư sản là tiền đề thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp Anh. Mà cuộc Cách mạng công nghiệp Anh lại ảnh hưởng ra toàn thế giới, thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thắng thế trên toàn thế giới.
            Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ với Bản Tuyên ngôn độc lập do T. Jefferson khởi thảo, lần đầu tiên trên thế giới đưa ra quyền con người, là mẫu hình của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng tư sản Pháp sau này. Tinh thần của Chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ đã ảnh hưởng trực tiếp đến Mỹ latinh khiến cho thế kỷ XIX, lục địa này bùng nổ hàng loạt các cuộc đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha dẫn đến sự ra đời nhiều quốc gia độc lập. Hơn nữa, sau khi giành độc lập, các quốc gia thuộc khu vực Mỹ latinh đã mô phỏng thể chế nhà nước cộng hòa của quốc gia láng giềng phía Bắc để xây dựng đất nước.
            Đại Cách mạng tư sản Pháp với các đại diện tiêu biểu của Trào lưu Triết học Ánh sáng, như Montesquieu, Voltaire, Rousseau, Diderot v.v.. trở thành bó đuốc soi đường không chỉ cho nhân dân Pháp mà toàn thể nhân loại. Chính Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ được viết dưới ánh sáng của các nhà tư tưởng Pháp. Sau đó, đến lượt mình, nó lại ảnh hưởng đến bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp.
            Những tư tưởng của Cách mạng Pháp nêu trong văn kiện trên đã được dịch và in không những ở châu Âu mà cả ở châu Mỹ, nhất là khu vực Mỹ latinh. Khắp nơi, Cách mạng Pháp đã thức tỉnh những lực lượng dân chủ và tiến bộ đứng lên chống chế độ phong kiến chuyên chế đang kìm hãm sự phát triển của xã hội. Cách mạng Pháp đã tác động mạnh mẽ đến nhiều nước trên thế giới. Ở những nước mà chủ nghĩa tư bản đã có những bước phát triển trong lòng xã hội phong kiến thì tác động mạnh mẽ và có kết quả rõ rệt. Ở những nước chưa đủ điều kiện lật đổ chế độ phong kiến thì nó kích thích những lực lượng tiến bộ thức tỉnh và giác ngộ.
            Tại Bỉ, quốc gia láng giềng của Pháp, là nơi chịu ảnh hưởng của cách mạng nhất và trực tiếp nhất. Mùa thu 1789, ở đây phong trào giải phóng dân tộc chống ách thống trị của Áo đã mang tính chất một cuộc Cách mạng tư sản. Cách mạng Bỉ không thành công, vì quần chúng nhân dân, nhất là nông dân, không hăng hái tham gia.
            Tại những quốc gia Tây Âu, một số vùng của Đức, Cách mạng Pháp đã kích động phong trào chống phong kiến hoặc có ảnh hưởng lớn lao về mặt tinh thần. Nông dân nhiều vùng ở Đức đã đứng lên bạo động chống phong kiến, có nơi xảy ra vũ trang khởi nghĩa. Giới trí thức Đức nhiệt liệt ca ngợi Cách mạng Pháp. Nhiều nhà thơ, nhà triết học, nhà sử học Đức xem đây như một biến cố vĩ đại của thời đại.
            Trong các nước của Đế chế Áo, Cách mạng Pháp đã kích động phong trào giải phóng của những dân tộc bị thống trị như, Hungari (ở đây phong trào mạnh lên trong những năm 1789-1794). Trí thức tiến bộ Tiệp Khắc thức tỉnh, không cam tâm chịu để cho đế chế Áo nô dịch nhân dân họ. Nhiều người đề xướng phong trào phục hưng Tiệp Khắc; hàng loạt tổ chức được thành lập nhằm phát triển văn hóa dân tộc.
            Ở Ba Lan, Italy, Hy Lạp…. Cách mạng Pháp cũng có ảnh hưởng. Cách mạng Pháp tác động trực tiếp đến những giới tiến bộ và cả đối với thế hệ sau.
            Tại khu vực Mỹ latinh, do Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thống trị, tin tức về Cách mạng Pháp bùng nổ và thắng lợi đã tác động mạnh mẽ đến quần chúng nhân dân. Người da trắng, người da đỏ, người da đen, người lai đều chịu ách thống trị của nước ngoài. Cùng với ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (cuối thế kỷ XVIII), Cách mạng Pháp đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc khu vực Mỹ latinh, nhất là Nam Mỹ. Tư tưởng của nhà triết học Pháp được thanh niên tiến bộ, như Simon Bolivar, Francisco de Miranda tiếp thu và nghiên cứu. Những thanh niên tiến bộ này sẽ là lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Mỹ latinh vào những thập niên đầu của thế kỷ XIX.
            Cách mạng Pháp đã được những lãnh tụ phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực này hoan nghênh nhiệt liệt. Miranda (Venezuela) từng tham gia quân đội cách mạng Pháp và được phong sĩ quan cấp tướng. Không những vậy, nó đã tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc ở những nước Nam Mỹ trở nên chín muồi. Trong mấy chục năm đầu thế kỷ XIX, ở đây đã bùng nổ và thắng lợi.
            Haiti, vốn thuộc địa của Pháp từ cuối thế kỷ XVII, đã tiến hành cách mạng để hưởng ứng những sự kiện đang diễn ra ở Pháp. Tháng 8-1791, cuộc khởi nghĩa bùng nổ do Toussaint Louverture lãnh đạo, đến đầu thế kỷ XIX mới bị dập tắt.
            Những cuộc chiến tranh cách mạng mà nước Pháp tiến hành đã truyền bá những tư tưởng dân chủ tiến bộ khắp châu Âu. Sau cuộc đảo chính tháng Sương mù (1799), Napoleon Bonarpart thiết lập chế độ độc tài quân sự, rồi lên ngôi hoàng đế và tiến hành chiến tranh xâm lược liên miên cho đến khi bị sụp đổ. Những cuộc chiến tranh này một mặt kích thích tinh thần dân tộc của những nước bị xâm lược (như Tây Ban Nha, Nga..); mặt khác về khách quan đã góp phần truyền bá tư tưởng của Cách mạng Pháp và giáng cho chế độ phong kiến lạc hậu những đòn chí tử. Hệ quả, suốt thế kỷ XIX, một loạt cách mạng tư sản bùng nổ ở châu Âu và Mỹ latinh.
            Công cuộc cải cách Minh Trị Duy tân đã có ảnh hưởng tới các quốc gia châu Á mà trước hết là Trung Quốc, nơi được xem thành trì vững chắc của chế độ phong kiến. Đúng 30 năm sau cải cách ở Nhật Bản, một phong trào Duy tân đã bùng nổ ở Trung Quốc do Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lãnh đạo. Hai ông đã bắt chước mô hình Nhật Bản để tiến hành cải cách dưới đấng Minh Quân, Quang Tự. Tuy nhiên, do hoàn cảnh khách quan nên phong trào Duy tân nhanh chóng thất bại.
            Ở Việt Nam, công cuộc cải cách Nhật Bản đã có ảnh hưởng tới phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Các sĩ phu phong kiến, nhất là Phan Bội Châu đã hướng đến Nhật Bản với lòng ngưỡng vọng sâu sắc. Chính Phan đã bỏ nhiều công sức để tìm con đường cứu nước tại xứ sở Mặt trời mọc.
            Cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc có tiếng vang lớn đối với các quốc gia châu Á. Đối với Việt Nam, cách mạng Tân Hợi với chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn đã khiến cho tư tưởng của Phan Bội Châu có sự chuyển biến rõ rệt: từ quân chủ lập hiến sang chế độ cộng hòa.
            Ảnh hưởng của các cuộc Cách mạng tư sản thật là lớn lao. Ngoài ý nghĩa to lớn của nó đối với sự phát triển của lịch sử nhân loại và tầm vóc quốc tế thì Cách mạng tư sản là trường học vĩ đại đối với nhân dân các nước, chuẩn bị cho họ những tri thức mới, tiến bộ để tiến lên những nấc thang cao hơn. Chính sự giác ngộ của quần chúng nhân dân thông qua Cách mạng tư sản đã làm tiền đề cho họ tiếp tục tiếp thu học thuyết kinh tế xã hội của Mác – Lênin. 
- Hạn chế của cách mạng tư sản
            Bên cạnh những thành tựu đạt được trong vấn đề dân tộc và dân chủ, Cách mạng tư sản còn bộc lộ nhiều hạn chế, trước hết đa số quần chúng nhân dân không được hưởng quyền tự do dân chủ cũng như không được tham gia bàn bạc các công việc chung. Điều này được thể hiện qua số người tham gia bầu cử, hoạt động chính trị quan trọng của nhà nước tư sản. Tại Hà Lan, sau cuộc cách mạng, số người có đủ tư cách cử tri chỉ chiếm 0,2% dân số. Ở nước Anh, con số này chỉ 3,6% (khoảng 50.000 người) vào thời điểm cách mạng kết thúc [7]. Ở Mỹ, sau cuộc Chiến tranh giành độc lập, dân số của quốc gia tư sản đầu tiên ở Tây bán cầu có khoảng 3.000.000 người nhưng số cử tri tham gia bầu cử chỉ có 120.000 người. Đa phần nhân dân, chủ yếu người nô lệ da đen, người da đỏ, người da trắng nghèo không hội đủ tư cách cử tri.
Ngay cả, đối với Cuộc cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII vốn được xem vĩ đại nhất thời Cận đại song số lượng cử tri có đủ tư cách tham gia vào đời sống chính trị đất nước không đáng kể. Điều này do chính quyền tư sản (phái Lập hiến) đã ban hành đạo luật chia công dân nước Pháp dựa trên tiêu chí tài sản, thành 2 loại “công dân tích cực”“công dân tiêu cực” (22-12-1789) [8].
Ngoài hạn chế nêu trên, mỗi cuộc cách mạng tư sản đều tồn tại nhiều hạn chế, như ở Nederland, các mạng chỉ giành được thắng lợi ở nửa nước. Tuy thành lập chính thể cộng hòa nhưng người đứng đầu nhà nước vẫn nằm trong tay một dòng họ duy nhất – Orania, nắm giữ chức vụ hết đời này sang đời khác trong một thời gian khá dài.
Ở Anh, tính bảo thủ của cách mạng tư sản Anh được thể hiện rõ nét qua việc không giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Trái lại, giai cấp tư sản Anh sau khi giành được chính quyền thì đoạt luôn cả ruộng đất, nền sở hữu phong kiến về ruộng đất chuyển sang nền đại sở hữu tư sản mà không về tay nông dân. Về chính quyền, giai cấp tư sản cũng không dám duy trì nền cộng hòa mà phải liên minh với thế lực phong kiến để thiết lập nên nhà nước quân chủ lập hiến.
Ở Mỹ, sau cuộc chiến tranh giành độc lập, ruộng đất nằm trong tay tư sản và chủ nô. Chế độ nô lệ không bị xóa bỏ. Việc duy trì chế độ nô lệ đồn điền đã tác động rất lớn trong việc kìm hãm sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nước Mỹ. Hệ quả của nó là dẫn đến việc đấu tranh giữa giai cấp tư sản công thương nghiệp miền Bắc và giới chủ đồn điền miền Nam. Cuộc đấu tranh đó đã kéo dài gần một thế kỷ và kết thúc vào năm 1865 bằng thắng lợi của giai cấp tư sản công thương nghiệp miền Bắc qua cuộc Nội chiến gay go, ác liệt.
Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII được coi là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất thời cận đại nhưng cũng không tránh khỏi những hạn chế của nó. Là cuộc cách mạng tư sản không hề có ý định tiêu diệt chế độ bóc lột nên cuộc cách mạng tư sản Pháp vẫn tiếp tục duy trì chế độ tư hữu mà tư hữu ở đây dành cho giai cấp tư sản.
Riêng ở 3 nước: Đức, Italy và Nhật, tính chất không triệt để của cách mạng tư sản được phản ánh qua việc duy trì sự thống trị của giai cấp quý tộc phong kiến và những đặc quyền quý tộc. Ở Nhật Bản đã không thủ tiêu ngay sở hữu phong kiến về ruộng đất để giải phóng nông dân mà ngược lại mặc nhiên thừa nhận những quan hệ sở hữu ruộng đất cũ ở nông thôn. Đây chính là điều làm cho nền công nghiệp của Nhật Bản không theo kịp tiến độ của nền kinh tế công thương nghiệp. Hơn nửa, tính chất không triệt để của cách mạng tư sản Nhật đã để lại cho nước Nhật những hậu quả làm cho nước Nhật phát triển theo con đường đặc biệt để trở thành một nước đế quốc phong kiến quân sự.
Ở Đức, sau cách mạng vẫn duy trì chế độ quân chủ và tàn dư phong kiến ở nông thôn, bảo đảm địa vị thống trị của nhà nước quân chủ địa chủ quý tộc Phổ. Con đường thống nhất đã đem lại kết quả tai hại đối với quần chúng nhân dân. Sự thống nhất bằng con đường phản dân chủ “từ trên xuống” đã là cho nước Đức trở thành dinh lũy phản động, là nguồn gốc quan trọng nhất của chủ nghĩa quân phiệt xâm lược và lò lửa của các cuộc chiến tranh sau này.
Italy, giai cấp tư sản trong quá trình cách mạng không dám thật sự liên minh với giai cấp nông dân mà lại liên minh với giai cấp quý tộc tư sản hóa. Phái tư sản tự do luôn luôn tìm cách thỏa hiệp với bọn phong kiến lỗi thời và thế lực phản động bên ngoài để hạn chế phong trào của nhân dân. Ngay những người dân chủ tư sản cũng không triệt để giải quyết yêu cầu của quần chúng nhân dân về ruộng đất, không cương quyết giữ vững quyền lãnh đạo cách mạng và để mọi thành quả cách mạng rơi vào tay phái tự do. Chính vì vậy, triều đại Savoir và liên minh đại tư sản – quý tộc hóa do Victor Emmanuel và Cavour đại diện đã giành quyền thống trị Italy, sớm chấm dứt tiến trình cách mạng, duy trì nhiều tàn tích phong kiến trong chế độ kinh tế và chính trị ở Italy.
Ở Trung Quốc, cuộc cách mạng Tân Hợi vẫn còn hạn chế là do giai cấp tư sản non yếu, dao động, thỏa hiệp với các lực lượng phản cách mạng. Đường lối, chủ trương của Đồng minh hội còn thiếu chính xác, có những điểm mơ hồ chưa giải quyết triệt để vấn đề ruộng đất cho nông dân. Lực lượng phản cách mạng còn mạnh, chúng cấu kết với đế quốc để đàn áp cách mạng.
Có thể khẳng định rằng Cách mạng tư sản thời cận đại mang lại quyền lợi cho một ít số người còn đại bộ phận quần chúng nhân dân, những người mà ngày hôm qua vốn là đồng minh của giai cấp tư sản trong quá trình cách mạng thì quyền lợi của họ không được tính tới. Do đó, về nguyên tắc và bản chất, Cách mạng tư sản khác hẳn cách mạng vô sản: sự phân biệt của hai loại cách mạng này là “sợi chỉ đỏ xuyên qua thời đại”. Bàn về các cuộc Cách mạng tư sản thời Cận đại, trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, lãnh tụ Hồ Chí Minh, viết: “Cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa” [9]. Chỉ có cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo mới đáp ứng được nguyện vọng của đa số quần chúng lao động bị áp bức. 
Do nhận thức được điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cứu nước đúng cho dân tộc – không theo Cách mạng tư sản mà đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Chúng ta vững tin vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã xác định và kiên trì thực hiện đến thắng lợi.




[1] C. Mác và Ph. Ăng-ghen, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trong Mác – Ăng-ghen, Tuyển tập, T. 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1981, tr. 544. 
[2] C. Mác, “Giai cấp tư sản và phản cách mạng” trong Mác và Ăng-ghen, Tuyển tập, T.1, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1981, tr. 654-655.
[3] Dẫn theo Nguyễn Văn Đức, Trần Văn Trị, Phạm Gia Hải, Phan Ngọc Liên, Lịch sử thế giới cận đại, Quyển 1 (1640-1870), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1971, tr.109.
[4] C. Mác và Ph. Ăng-ghen, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trong Mác – Ăng-ghen, Tuyển tập, T. 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1981, tr. 544. 
[5] C. Mác, “Giai cấp tư sản và phản cách mạng” trong Mác và Ăng-ghen, Tuyển tập, T.1, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1981, tr. 654-655.
[6] Dẫn theo Nguyễn Văn Đức, Trần Văn Trị, Phạm Gia Hải, Phan Ngọc Liên, Lịch sử thế giới cận đại, Quyển 1 (1640-1870), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1971, tr.109.
[7] Micheal Beaud, Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ 1500 đến 2000, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2002, tr.67.
[8] Theo đó, công dân tiêu cực là những người không có đủ điều kiện đóng thuế bầu cử được quy định, do đó bị tước quyền bầu cử và ứng cử; công dân tích cực là những người có đầy đủ điều kiện về tài chính và có quyền đầu phiếu. Công dân tích cực lại được chia làm 3 loại: (1) Quyền chọn cử tri thuộc về những người đàn ông từ 25 tuổi trở lên và đóng thuế trực thu trị giá tối thiểu bằng ba ngày công ở địa phương; (2) Cử tri, tức là những người bầu nghị sĩ, là những công dân nam đóng thuế trực thu tương đương 10 ngày công; (3) Chỉ có những cử tri đóng một khoản tiền tương đương 54 livres và có ruộng đất mới được ứng cử vào Quốc hội. 
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập (1925-1930), T.2, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1981, tr.197. 

No comments:

Post a Comment