Quân
đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quân sự chính quy của chính phủ Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam, là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc
của nhân dân”. Ngày truyền thống là ngày 22 tháng 12 hằng năm. Quân kỳ của quân
đội nhân dân Việt Nam là lá quốc kỳ của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
thêm dòng chữ “ Quyết thắng” màu vàng ở phía trên bên trái.
Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền
Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 tháng 12 năm
1944 theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, tại khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
Khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chỉ có 34
cán bộ, chiến sĩ (trong đó có 3 nữ) do Võ Nguyên Giáp chỉ huy chung nhưng đã sớm
phát huy được truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự lấy ít địch
nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của dân tộc. Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính
quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những
khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu
truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này.
Ngày 15/4/1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa, Bắc
Giang quyết định sát nhập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với lực
lượng Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn chỉ huy, đổi tên thành Giải phóng quân, lực
lượng quân sự chính của Việt Minh để giành chính quyền Cách mạng tháng Tám năm
1945. Lễ hợp nhất được tổ chức ngày 15/5/1945, tại rừng Thàn Mát, xã Định Biên,
huyện Định Hóa, Thái Nguyên.
Thời gian từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ
phát triển vượt bậc cả về số lượng và khả năng chiến đấu của Quân đội nhân dân
Việt Nam. Chỉ một thời gian ngắn, từ khi đất nước giành được độc lập đến tháng
11 năm 1945, Giải phóng quân đã phát triển từ một đội quân nhỏ trở thành Quân đội
Quốc gia Việt Nam với quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành 40 chi đội.
Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cũng thời gian này, các đại đoàn (đơn vị tương đương sư đoàn) chủ lực quan trọng
như các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến
nay vẫn là những đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ một đội quân
chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã
phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến
công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 07 tháng 05
năm 1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Nhân dân Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Nhiệm vụ của quân đội thời kỳ này là vừa xây dựng chính quy, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vừa tham gia đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 15 tháng 02 năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng quân sự của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng tăng viện từ miền Bắc. Trước sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã sát cánh cùng với nhân dân và các lực lượng vũ trang khác, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ, lập nên những kỳ tích mà tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà đỉnh cao là chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972; kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước.
Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam lại cùng với
nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam vừa mới kết thúc thì chế độ diệt chủng do Pônpốt cầm đầu ở Campuchia đã kích động hận thù dân tộc, tiến hành chiến tranh xâm lấn ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Chúng gây ra nhiều cuộc thảm sát man rợ với nhân dân Việt Nam sống dọc biên giới, đồng thời thực hiện chính sách diệt chủng đối với nhân dân Campuchia. Đứng trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, ngày 23 tháng 12 năm 1978 Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công của quân đội Pônpốt. Sau đó, đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân và Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang Campuchia, đánh tan 21 sư đoàn quân Pônpốt, xoá bỏ chế độ diệt chủng tàn bạo.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam vừa mới kết thúc thì chế độ diệt chủng do Pônpốt cầm đầu ở Campuchia đã kích động hận thù dân tộc, tiến hành chiến tranh xâm lấn ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Chúng gây ra nhiều cuộc thảm sát man rợ với nhân dân Việt Nam sống dọc biên giới, đồng thời thực hiện chính sách diệt chủng đối với nhân dân Campuchia. Đứng trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, ngày 23 tháng 12 năm 1978 Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công của quân đội Pônpốt. Sau đó, đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân và Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang Campuchia, đánh tan 21 sư đoàn quân Pônpốt, xoá bỏ chế độ diệt chủng tàn bạo.
Bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, các thế hệ sĩ
quan, chiến sĩ quân đội vẫn kế tiếp nhau phát huy truyền thống và bản chất tốt
đẹp của “Bộ đội cụ Hồ”, luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, một
đội quân công tác, một đội quân sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Thực hiện chức năng là một đội
quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt với
nhân dân. Là một trong các lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần
chúng, các đơn vị quân đội đã tích cực thực hiện công tác dân vận. Nhiều đơn vị
quân đội đã đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa;
tham gia công tác cứu hộ và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống lụt, bão. Quân đội
cũng tích cực tham gia xoá đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất
và tình thần cho các tầng lớp nhân dân, phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành chỉ
tiêu xóa đói giảm nghèo cho 100.000 hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
Là một đội quân sản xuất, các đơn vị trong toàn quân đã
tận dụng mọi tiềm năng lao động, đất đai, kỹ thuật... để đẩy mạnh tăng gia sản
xuất, tạo nguồn sản phẩm bổ sung tại chỗ, góp phần giữ ổn định và cải thiện
đáng kể đời sống bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp của quân đội đã sản xuất được
các loại vũ khí, khí tài phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện đại, đáp ứng các
yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế
của quân đội đã sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, trở thành các tổ chức kinh
tế lớn của đất nước, đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng
đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh
của đất nước. Các doanh nghiệp quân đội đã tham gia nhiều dự án công trình trọng
điểm của quốc gia như đường Hồ Chí Minh, đường dây 500 KV Bắc - Nam, dịch vụ dầu
khí và nhiều công trình thuỷ điện lớn như sông Đà, Drây H’ling. Hiện có 98
doanh nghiệp quân đội đang tham gia hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế như dịch
vụ bay, dịch vụ cảng biển, viễn thông, công nghiệp đóng tàu... Kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp này ngày một tăng.
Thực hiện chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc
gia của đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hướng tinh gọn,
được trang bị các loại vũ khí, khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện
thường xuyên, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Với sự phát triển kinh tế trong thập niên đầu của thế kỷ
21, Việt Nam đang dần đầu tư mạnh và hiện đại hóa quân đội. Hiện đại hóa quân đội
là tư tưởng chỉ đạo qua hai khóa Đại hội Đảng năm 2001-2006, 2006-2011. Từ năm
2012 đến năm 2015, Việt Nam sẽ trở thành một trong 3 nước nhập khẩu vũ khí của
Nga nhiều nhất. Là một thành viên của ASEAN, thực lực quân sự của Việt Nam được
các nước trong ASEAN rất coi trọng. Hiện nay, trình độ trang bị công nghệ cao của
Quân đội Việt Nam chưa được hoàn thiện, nhưng phân tích kỹ thì trong Hải, Lục,
Không quân Việt Nam vẫn có một số vũ khí "vượt trội".
Hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam có lực lượng thường
trực gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng 450.000
người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành phần
nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng cơ động của các quân
đoàn, quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn
kỹ thuật. Bên cạnh các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có
hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện
nghiên cứu, các trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp.
BÙI THỊ DIỆU HIỀN
Sinh viên lớp sử 1A - Khoa Lịch sử - ĐHSP Huế
No comments:
Post a Comment