A.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do
chọn đề tài
Sau khi chiến tranh thế
giới lần thứ nhất kết thúc cùng với thất bại của phe liên minh Đức - Áo -
Hung…Hệ thống hòa ước Vecxai - Woasinhton được thiết lập để giải quyết những
hậu quả của chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thiết lập một trật tự thế giới
mới sau chiến tranh. Tuy nhiên, bản thân của hệ thống hòa ước Vecxai –
Woasinhton cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn lợi ích gay gắt giữa các
nước đế quốc và cục diện của thế giới tư bản cuối những năm 30 của thế kỷ XX.
Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng kinh thế giới 1929 - 1933 đã có những tác động
mạnh mẽ đến các quốc gia trên thế giới, nó tàn phá nặng nề và gây ra những hậu
quả chính trị - xã hội tai hại nhất trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Để giải
quyết những vấn đề này, giai cấp tư sản cầm quyền ở các nước tư bản đã chọn lựa
một trong hai con đường: Đó là con đường phát xít hóa và con đường cải cách
kinh tế, xã hội một cách ôn hòa, chủ trương tiếp tục duy trì hệ thống Vecxai -
Woasinhton. Hai su hướng trên đã đưa đến sự ra đời của hai khối đế quốc độc
lập: khối đế quốc phátxít (Đức, Italia, Nhật Bản) và khối đế quốc dân chủ (Anh,
Pháp, Mỹ). Cùng với sự ra đời của hai khối đế quốc trên là sự xuất hiện của
Liên Xô với đường lối đối ngoại hòa bình, chống chiến tranh, chống phátxít đã
không phù hợp với tham vọng của hai khối đế quốc nêu trên. Tình hình này đã tạo
nên cục diện ba lực lượng chính trị với ba đường lối đối ngoại khác nhau, nó
phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc của quan hệ quốc tế trước khi thế chiến II
bùng nổ. Đó là tính chất tối phản động của giai cấp tư sản độc quyền Đức cũng
như tính chất hai mặt của Anh – Pháp – Mỹ. Đi cùng với sự cầm quyền của chủ
nghĩa phátxít là ý đồ gây chiến để phân chia lại thế giới. Những hoạt động xâm
lược ngày càng ráo riết của khối phátxít Đức, Italia và Nhật Bản đã đụng chạm
đến lợi ích của ba nước Anh, Pháp, Mỹ. Đều này đã làm cho mâu thuẫn giữa hai khối
đế quốc ngày càng trở nên gây gắt hơn.
Như vậy, đứng trước tình
hình thế giới đang có những biến chuyển xấu, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc diễn
ra ngày càng sâu sắc, chiến tranh thế giới lần thứ II đứng trước nguy cơ bùng nổ
thì thái độ của ba nước Anh, Pháp, Mỹ là như thế nào? và mối quan hệ giữa Anh -
Pháp - Mỹ trong thời kỳ này ra sao là những điều mà tác giả đang thắc mắc và
muốn tìm hiểu để làm sáng tỏ vấn đề đề này.
Vì thế tác giả quyết định
chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Anh - Pháp
- Mỹ trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ” làm bài tiểu
luận của mình.
2. Lịch sử
nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình
nghiên cứu về đề tài: “Mối quan hệ giữa
Anh – Pháp - Mỹ trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ” nhưng
chủ yếu các công trình này đều tập trung nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của vấn
đề, chứ chưa có công trình khoa học nào hoàn chỉnh.
Trong cuốn giáo trình “Lịch sử thế giới hiện đại” của PGS.TS
Lê Văn Anh (chủ biên), PGS.TS Hoàng Thị Minh Hoa, ThS. Đinh Thị Lan, TS. Bùi
Thị Thảo đã trình khái quát về quan hệ quốc tế trước khi chiến tranh bùng nổ
(1919 - 1939) và sự tan rã của hệ thống Vecxai – Woasinhton.
Trong cuốn “Lịch sử thế giới hiện đại” quyển I Đỗ
Thanh Bình (chủ biên), Nguyễn Công Khanh, Ngô Minh Oanh, Đặng Thanh Toán. Nhà
xuất bản đại học sư phạm (10/2008) đã trình về chính sách đối nội, đối ngoại
của các nước Anh, Pháp, Mỹ trong giai đoạn 1919 – 1939.
Ngoài
ra ở nước ta còn có một số bài được đăng tải trên tạp chí nghiên cứu lịch sử
cũng đã đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, do mục đích của các công trình cho
đến nay vẫn thiếu vắng một công trình trình bày một cách hệ thống về mối quan
hệ của ba nước Anh - Pháp - Mỹ trước nguy cơ chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ.
Mặc dù vậy những công trình trên là nguồn tư liệu quý báu để tác giả tham khảo
và hoàn thành đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
của đề tài là “Mối quan hệ giữa Anh - Pháp
- Mỹ trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục
đích: Trình bày có hệ thống về mối quan hệ giữa Anh - Pháp - Mỹ trước nguy cơ
chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ.
4.2. Nhiệm
vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ cơ bản
sau đây:
¶ Trình bày khái quát về những nhân tố chủ yếu chi phối mối quan hệ
giữa Anh - Pháp - Mỹ trước nguy cơ thế chiến bùng nổ.
¶ Làm rõ mối quan hệ Anh – Pháp – Mỹ trước chiến tranh thế giới lần
thứ II.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư
liệu: Gồm những công trình đã được công bố liên quan đến đề tài.
5.2. Phương
pháp nghiên cứu:
¶ Quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sử học là cơ sở phương pháp luận của đề
tài.
¶ Để thực hiện đề tài tác
giả sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, và các phương pháp nghiên
cứu cụ thể của bộ môn như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh…để rút ra
những nhận xét, kết luận cần thiết.
6. Những đóng góp của đề tài
¶ Cung cấp hệ thống tư liệu về mối quan hệ giữa Anh - Pháp - Mỹ
trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ.
¶ Kết quả nghiên cứu của
đề tài là nguồn tư liệu tham khảo cho những nhà khoa học và những ai quan tâm
về vấn đề này. Giúp người đọc nhận thức rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc đồng
thời rút ra được những bài học kinh nghiệm trong vấn đề ngoại giao hiện nay.
Góp phần củng cố nền hòa bình thế giới và ngăn chặn những nguy cơ tiềm ẩn có
thể dẫn đến thế chiến lần thứ III.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở
đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục còn có phần nội dung đề tài gồm có
hai chương:
Chương 1:
Những nhân tố chủ yếu chi phối mối quan hệ giữa Anh – Pháp – Mỹ trước nguy cơ
thế chiến bùng nổ.
Chương 2: Mối quan hệ Anh
– Pháp – Mỹ trước chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những nhân tố chủ yếu chi phối mối quan hệ giữa Anh
- Pháp - Mỹ trước nguy cơ thế chiến bùng nổ
1.1
Sự tan rã của hệ thống
Vécxai – Washinston
Sau khi chiến tranh thế
giới lần thứ nhất kết thúc, các nước tư bản đã tổ chức hội nghị hòa bình ở
Vecxai (1919 - 1920) và Woasinhton (1921 - 1922) để phân chia quyền lợi và phạm
vi ảnh hưởng của mình. Một trật tự thế giới mới được thiết lập mang tên hệ
thống hòa bình Vecxai - Woasinhton. Tuy nhiên bản thân hệ thống này lại mang
đến nhiều lợi ích nhất cho các nước thắng trận (Anh, Pháp, Mỹ). Do vậy, sự ổn
định của chủ nghĩa tư bản từ 1924 - 1929 do hệ thống Vecxai - Woasinhton mang
lại chỉ là tương đối, tạm thời và có điều kiện: Về kinh tế đó là thời kì tạm
phục hồi và phát triển giữa 2 chu kì. Về mặt quan hệ quốc tế, các nước thắng
trận trong thế chiến thứ nhất chưa đi đến chỗ chia rẽ triệt để và nước Đức bại
trận chưa kịp khôi phục lực lượng quân sự của mình. Đó là điều kiện thống nhất
ổn định tạm thời trong phe tư bản chủ nghĩa. Khi điều kiện cho sự thống nhất
không còn nữa_tức là khi Đức đã khôi phục lại được lực lượng của mình, mâu
thuẫn tiềm tàng giữa các nước đế quốc đã phát triển đến mức sâu sắc không thể
điều hòa được nữa, mâu thuẫn căn bản của chủ nghĩa tư bản là khả năng của sự
sản xuất tư bản và khuôn khổ hạn chế của thị trường đã trở nên gay gắt. Khi tất
cả các mâu thuẫn đó đạt đến một giới hạn nhất định trong sự phát triển của nó
thì sự thống nhất, ổn định sẽ tan vỡ và mở ra một thời kỳ mới của khủng hoảng
kinh tế và chính trị. Đại hội VI của quốc tế cộng sản 1928 dự báo trước rằng: “những mâu thuẫn riêng biệt phát triển
trên nền tảng của những thay đổi căn bản trong cơ cấu của hệ thống kinh tế thế
giới không thể không dẫn đến một sự bùng nổ mới” [6,tr143].
Vào cuối năm 1929, đúng
như lời dự đoán của đại hội VI, thế giới tư bản chủ nghĩa đã lâm vào một cuộc
khủng hoảng kinh tế mới, sâu sắc và nghiêm trọng chưa từng có trong lịch sử của
chủ nghĩa tư bản. Cuộc khủng hoảng kinh tế này
đã chấm dứt thời kỳ ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ
nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mỹ (24/10/1929)
đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa,
để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Hàng trăm
triệu người (công nhân, nông dân và gia đình của họ) bị rơi vào vũng lầy đói
khổ. Hàng ngàn cuộc biểu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các nước tư
bản tham gia trong những năm 1929 - 1933. Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc,
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ. Những mâu thuẫn của
chủ nghĩa tư bản trở nên cực kỳ gay gắt. Trước tình hình đó, giai cấp tư
sản các nước đế quốc đã tìm mọi phương thuốc để cứu chữa nhưng tất cả đều vô
hiệu. Do vậy, đã hình thành những xu hướng
khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản
chủ nghĩa. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn,
nguyên liệu và thị trường đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị,
thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu
hướng này. Trong những năm 1929 - 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã
từng bước phá vỡ những điều khoản chính yếu của hệ thống Vécxai - Oasinhtơn và
tích cực chuẩn bị chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước
Anh, Pháp, Mỹ...đã tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh
tế - xã hội, duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì
nguyên trạng hệ thống Vécxai - Oasinhtơn. Vì thế quan hệ giữa các cường quốc tư
bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp.
Như
vậy, với sự hình thành hai khối đế quốc đối lập: Một bên là Đức, Italia, Nhật
Bản với một bên là Anh, Pháp, Mỹ và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối này đã
phá vỡ hệ thống thỏa hiệp tạm thời Vecxai - Oasinhtơn dẫn tới sự hình thành của
ba lò lửa chiến tranh.
Lò lửa
chiến tranh thứ nhất xuất hiện ở Viễn Đông với việc đế quốc Nhật xâm lược Đông
Bắc rồi Hoa Bắc Trung Quốc. Lò lửa chiến tranh thứ hai và thứ ba là ở châu Âu
và Italia. Với sự ra đời của ba lò lửa chiến tranh trên đã đánh dấu sự tan vỡ
của hệ thống Vécxai – Oasinhton trên phạm vi thế giới và báo hiệu một cuộc
chiến tranh thế giới mới sắp nổ ra.
1.2 Những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chính sách đối ngoại của Liên Xô
1.2.1
Những thành tựu trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô
Trải qua những năm chiến tranh và nội chiến kéo dài đã làm cho
tình hình kinh tế, xã hội Liên Xô bị tàn phá một cách nghiêm trọng. Những thiệt
hại vật chất trong chiến tranh và nội chiến lên đến hàng chục tỉ rúp, nhà máy,
xí nghiệp, cầu đường bị tàn phá, đất đai bị bỏ hoang lên tới 20 triệu ha. Đời
sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, những mặt hàng tối thiểu cho cuộc sống hàng
ngày không đáp ứng đủ. Bên cạnh những khó khăn về mặt kinh tế, từ năm 1921, lại
nảy sinh những khó khăn về mặt chính trị: “Chính
sách cộng sản thời chiến” không còn phù hợp nữa, nông dân bất mãn với chính
sách trưng thu lương thực thừa, không còn hào hứng sản xuất, công nhân thất
nghiệp giảm sút một nửa so với trước chiến tranh, bọn phản cách mạng đã lợi
dụng những khó khăn kích động những bất mãn trong lòng quần chúng và gây rối
loạn nhiều hơn. Nghiêm trọng hơn là cuộc nổi loạn ở Crongxtat một nơi có truyền
thống cách mạng vào ngày 28/2/1921.
Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng Boncheviste nhân dân
Xô Viết từng bước vượt qua khó khăn và thử thách, phát huy những thuận lợi,
khắc phục những khó khăn và đã đặt được những thành tựu rực rỡ trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về kinh tế
Nhờ có đường lối đúng đắn của NEP công cuộc khôi
phục kinh tế tiến triển nhanh chóng. Năm 1922, được mùa lớn thành thị đã đủ
lương thực, thực phẩm, công nhân trở lại nhà máy. Cũng trong năm 1922, công
cuộc khôi phục kinh tế đã hoàn thành cơ bản, sản xuất nông nghiệp 87%, công
nghiệp 75%, trong đó công nghiệp nặng chiếm 81%. Đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Năm 1926, sản xuất công - nông nghiệp đạt xấp xỉ trước chiến tranh.
Giao thông vận tải, đặc biệt là nghành đường sắt được khôi phục và phát triển
nhanh chóng, số lượng hàng hóa được chuyển đi khắp nơi đạt 80% so với trước
chiến tranh.
Thương nghiệp đã có những chuyển biến mới, giao lưu hàng hóa các
địa phương đã tăng lên, chu chuyển nội thương bằng 70% so với trước chiến
tranh, thành phần kinh tế nhà nước và hợp tác xã chiếm đến 87%. Sau khi khắc
phục những khó khăn cơ bản của nền kinh tế, chính phủ và nhân dân Xô Viết tiếp
tục bắt tay vào thực hiện công cuộc công nghiệp hóa và đã nhanh chóng thu được
những thắng lợi mới: năm 1927, sản lượng điện đã tăng 2 lần so với năm 1913.
Đến năm 1928, sản xuất chiếm 54% tỉ trọng công nghiệp. Sang năm 1929, công cuộc
công nghiệp hóa đã giải quyết được 3 vấn đề cơ bản là vốn tích lũy, nền công
nghiệp nặng có thể sản xuất lấy những máy móc thiết yếu. Vấn đề nâng cao năng
suất lao động, số vốn đầu tư lên đến 3,4 tỉ rúp gấp 4 lần so với năm 1926.
Giữa năm 1930, công cuộc tập thể hóa nông nghiệp đã thu hút hơn 10
triệu nông hộ tham gia chiếm 40% nông hộ cả nước. Năm 1931, phong trào tiến
thêm bước nữa và những nông trang tập thể, nông trường quốc doanh chiếm 2/3
diện tích deo trồng. Cuối năm 1932, công cuộc tập thể hóa nông nghiệp hoàn
thành.
Cùng với tập thể hóa nông nghiệp Đảng và nhà nước Liên Xô thực
hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và thứ hai, các kế hoạch này đều hoàn thành
trước thời hạn. Đến mùa hè năm 1937, sản xuất đã vượt 48% so với năm 1929. Tổng
sản lượng công nghiệp đã vượt Anh, Pháp, Đức cộng lại, đứng đầu châu Âu và đứng
thứ 2 thế giới sau Mỹ. Đến năm 1937, công cuộc tập thể hóa công nghiệp đã hoàn
thành trong cả nước, chiếm 93% tổng sản lượng.
Mặc dầu trong mấy năm đầu gặp rất nhiều khó khăn nhưng Liên Xô
cũng đạt được những thành tựu to lớn: Năm 1938, tổng sản lượng công nghiệp là
hơn 100 tỉ rúp so với hơn 42 tỉ rúp năm 1913. Đến năm 1941 tổng sản lượng công
nghiệp của Liên Xô đã đạt tới 86% vượt mức năm 1942 và trong 3 năm đầu của kế
hoạch 5 năm này sản lượng công nghiệp tăng bình quân 13% năm.
Nông nghiệp và các ngành
kinh tế khác đã có những bước phát triển đáng kể, đời sống vật chất của nhân
dân không ngừng được cải thiện, thu nhập quốc dân lên 128 tỉ rúp năm 1940 so
với 96 tỉ rúp năm 1937, quỹ tiền lương tăng 1,5 lần.
Về chính trị – xã hội
Cuối năm 1922, toàn thể lãnh thổ Xô Viết được giải phóng. Lúc này
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quốc phòng đòi hỏi các dân tộc
trong đất nước Xô Viết phải liên minh chặt chẽ hơn về mọi mặt. Tháng 12/1922,
trên cơ sở tự nguyện của các dân tộc Liên Bang cộng hòa XHCN Xô Viết được thành
lập (Liên Xô). Đầu 1924, hiến pháp Liên Xô được thông qua thay cho hiến pháp
1918.
Năm 1936 hiến pháp mới được thông qua thay thế cho hiến pháp năm
1924, phản ánh những kết quả xây dựng chủ nghĩa xã hội, kế hoạch 5 năm đã đánh
dấu Liên Xô bước đầu đã xây dựng nền móng xã hội chủ nghĩa.
Cơ cấu giai cấp trong xã hội Liên Xô cũng có sự biến chuyển lớn lao và nhanh
chóng, tất cả các giai cấp bóc lột đều bị xóa bỏ. Trong xã hội Xô Viết chỉ còn
lại 2 giai cấp cơ bản là công nhân và nông dân tập thể cùng tầng lớp trí
thức xã hội chủ nghĩa, trình độ văn hóa công nông ngày càng nâng cao, sự nhất
trí về chính trị và tư tưởng giữa họ là nền tảng cho xã hội _ xã hội chủ nghĩa.
Về văn hóa-
giáo dục, khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật
Đến năm 1937, Liên Xô đã thanh toán xong nạn
mù chữ và phổ cập giáo dục cấp 1 bắt buộc và phổ cập cấp 2 ở thành phố. Số
lượng học sinh từ 8 triệu 1913 lên 28 triệu 1937, số sinh viên từ 120 ngàn lên
542 ngàn năm học 1940- 1941, cả nước có 3,5 triệu học sinh phổ thông và khoảng 80
vạn sinh viên. Đầu năm 1937, đội ngũ trí thức Xô Viết đã lên đến 10 triệu người
và có nhiều đóng góp xuất sắc trên nhiều lĩnh vực khoa học - kỷ thuật, xây dựng
kinh tế văn hóa cũng như bảo vệ tổ quốc.
Trên lĩnh vực khoa học – kỹ
thuật cũng đạt được nhưng thành tựu rực rỡ
¶ Về khoa học tự nhiên: phát hiện lý thuyết
về cấu trúc nguyên tử.
¶ Khoa học vũ trụ, thuyết về hoạt động thần
kinh cao cấp và về lai tạo giống cây trồng.
Khoa học xã hội cũng phát triển không ngừng. Những năm 1929 - 1939
được xem là thời kỳ hoàng kim của văn học Xô Viết với những tác phẩm nổi tiếng:
“Sông Đông êm đềm”, “Đất và hoa”, “Con
đường đau khổ”, “Người Mẹ”…Trên lĩnh vực sân khấu điện ảnh cũng như báo chí
cùng đều đạt những kết quả to lớn.
Về quốc phòng an ninh
Trên cơ sở công nghiệp hóa chính quyền Xô Viết đã xây dựng nền
công nghiệp quốc phòng mới hiện đại không thua kém các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển, Liên Xô đã chế tạo được xe tăng, máy bay và phát triển công nghiệp
hàng không, các xí nghiệp quốc phòng được hưởng các chế độ ưu tiên đặc biệt.
Bên cạnh đó chính phủ Xô Viết đã tổ chức lại lực lượng vũ trang cho đất nước và
xây dựng quân đội theo nguyên tắc mới, chính quy hóa và hiện đại hóa hơn: Năm
1924, có 63 trường Lục quân, 32 trường không quân, 14 trường đại học quân sự
chính quy và nhiều trường học khác đào tạo cán bộ sĩ quan chỉ huy.
Mặc
dầu phải ra sức xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng nhưng Đảng và chính phủ
Xô Viết đã đề ra nhiều biện pháp sáng kiến hòa bình, kêu gọi Anh, Pháp phối hợp
hành động xây dựng hệ thống an ninh tập thể. Nhưng do theo đuổi chính sách thù
địch với Liên Xô nên các nước này không bắt tay hợp tác với Liên Xô.
Đứng trước tình hình chiến tranh thế giới đang đến gần mà không có
khả năng cứu vãn, chính phủ Liên Xô cũng phải thi hành những chính sách ngoại
giao chủ động của mình.
Tháng 8/1939, Liên Xô ký với Đức hiệp ước không tấn công nhau có
thời hạn 10 năm. Hiệp ước Xô – Đức đã tạo cho Liên Xô có thời gian để củng cố
lại lực lượng quốc phòng và chuẩn bị lực lượng tốt hơn về mọi mặt. Làm thất bại
âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc trong việc mượn bàn tay của chủ nghĩa
phát xít để tiêu diệt Liên Xô.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu nói trên, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sau khi Lênin qua đời. Giới lãnh đạo Liên Xô
đã vấp phải những sai lầm nghiêm trọng như: nhà nước nắm độc quyền kinh tế, chế
độ bao cấp quá độ, nguyên tắc tập trung dân chủ và nền pháp chế chủ nghĩa xã
hội bị vi phạm, xuất hiện tình trạng chuyên quyền, độc đoán, quan liêu,… đã để
lại những hậu quả nặng nề và lâu dài cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của
Liên Xô về sau.
Như vậy, trải qua những khó khăn gian khổ Liên Xô từ một nước nông
nghiệp đã trở thành một cường quốc công nghiệp hùng mạnh. Nhờ vậy, đã đủ sức
đối mặt với thử thách cực kỳ lớn lao của thế giới trong những năm 1930-1940,
đánh bại được chủ phát xít, phá thế bao vây cô lập của chủ nghĩa đế quốc, uy
tín và vị thế quốc tế của Liên Xô ngày càng nâng cao trên trường quốc tế.
1.2.2 Chính
sách đối ngoại của Liên Xô
Ngay từ khi mới ra đời,
Nhà nước Xô Viết non trẻ đã tuyên bố với thế giới một chính sách đối ngoại hòa
bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
giữa các quốc gia. Nhà nước Xô Viết tuyên bố
“chiến tranh đế quốc là tội ác lớn nhất chống lại loài người” [4,tr28]. Đối
với các nước láng giềng gần gũi trong những năm 1921-1922, nhà nước Xô Viết đã
công nhận và ký kết các hiệp ước hữu
nghị, thiết lập quan hệ ngoại giao với Apganixtan, Iran, Na Uy, Áo, Tiệp
Khắc…chính phủ Liên Xô còn tuyên bố xóa nợ trước đây cho ba nước láng giềng Thổ
Nhĩ Kỳ, Iran và Apganixtan.
Đến giữa năm 1920, với
những cố gắng của Liên Xô đã có trên 20
nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Riêng Mỹ đến năm 1933 mới công
nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Trong những năm chiến tranh
thế giới sắp nổ ra, tháng 12/1933, Liên Xô đã chủ động đề nghị thiết lập một hệ
thống an ninh tập thể gồm tất cả các nước châu Âu để ngăn chặn hành động xâm
lược của chủ nghĩa phát xít. Bằng hàng loạt các hành động cụ thể của mình như:
Gia nhập Hội Quốc Liên (9/1934), ký hiệp ước chi viện lẫn nhau giữa Pháp và
Tiệp Khắc…
Mặc cho thiện chí và
những hành động thực tế của Liên Xô nhằm tập hợp lực lượng chống phát xít, các
nước đế quốc Anh, Pháp vẫn thi hành “chính
sách hai mặt” của mình. Đến giữa tháng 4/1939, khi Đức tấn công Tiệp Khắc
thì chính phủ Anh, Pháp mới chấp nhận lời đề nghị của Liên Xô ngồi vào bàn đàm
phán để ngăn chặn chủ nghĩa phát xít nhưng cũng không có kết quả. Trước tình
hình đó Liên Xô buộc phải kí “Hiệp ước
không xâm phạm” với Đức.
Hiệp ước này đã làm phá
sản Hiệp ước Munich của các nước phương Tây và tạo điều kiện cho Liên Xô có đủ
thời gian hòa hoãn, tích cực chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến tranh chống Đức
sớm muộn gì cũng xảy ra. Như vậy, nhờ chính sách ngoại giao kiên quyết và khôn
khéo trong thời kỳ giữa 2 cuộc chiến tranh, Liên Xô đã đập tan được âm mưu thù
địch của 2 khối đế quốc và phát xít. Góp phần duy trì nền hòa bình và bảo vệ hệ
thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Có thể nói rằng: đây là những thắng lợi
to lớn về đường lối đối ngoại của Liên Xô và nâng cao vị thế của Liên Xô trên
trường quốc tế.
1.3 Tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn
nhất trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Đó là cuộc khủng hoảng sản xuất “thừa”, bởi vì sự sản xuất bừa bãi, ồ ạt
chạy theo lợi nhuận trong những năm ổn định của chủ nghĩa tư bản 1924 - 1929 đã
dẫn đến tình trạng hàng hoá ế thừa vì sức mua của quần chúng đã bị giảm sút
nhiều do sự bóc lột tàn tệ của giai cấp tư sản.
Ngày 24/10/1929, cuộc khủng hoảng đi vào lịch sử nước Mỹ cũng như
thế giới tư bản chủ nghĩa với cái tên “Ngày
thứ năm đen tối”. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mỹ sau đó làn rộng ra toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, chấm dứt
thời kỳ ổn định và tăng trưởng kinh tế, dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu,
hàng hóa ế thừa. Cuộc khủng hoảng kéo dài 4 năm và gây nên những hậu quả vô
cùng to lớn về kinh tế, chính trị và xã hội chưa từng thấy trong lịch sử các
nước tư bản chủ nghĩa.
Sản lượng
công nghiệp của nước Mỹ giảm 50%, trong đó gang, thép giảm xuống 76%, ô tô giảm
80%, sắt 70.4%, 11.500 xí nghiệp nhỏ và cả những xí nghiệp lớn bị phá sản [7,tr109].
Nông thôn cũng bị tác động mạnh mẽ. Để nâng cao giá
hàng hoá và thu nhiều lời, các nhà tư bản kếch sù đã tiêu huỷ hàng hoá : cà
phê, sữa, lúa mì, thịt, ...v.v...thà đốt hay đổ xuống biển chứ không được bán
hạ giá. Cuộc khủng hoảng lan rộng đến các
nước tư bản chủ nghĩa khác. Ở Anh, sản lượng gang năm 1931 sụt mất 50% , thép
cũng sụt gần 50% , thương nghiệp giảm 60% [7,tr115]. Ở Pháp, cuộc khủng hoảng
bắt đầu từ cuối năm 1930 và kéo dài đến năm 1936, sản lượng công nghiệp giảm
30%, nông nghiệp 40%, ngoại thương 60%, thu nhập quốc dân 30% [7,tr118]. Ở Đức,
đến năm 1932, sản lượng công nghiệp giảm 77%. Ở các nước Ba Lan, Ý, Ru-ma-ni,
Nhật, ... đều có khủng hoảng kinh tế.
Để bù đắp cho những thiệt
hại do cuộc khủng hoảng kinh tế ở chính quốc, các nước đế quốc đã tăng cường
bóc lột, vơ vét thuộc địa, trút hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế xuống đầu
nhân dân các nước bị áp bức. Do đó, làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với
nhân dân các nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt, phong trào giải phóng
dân tộc ngày càng bùng nổ quyết liệt. Mặt khác, cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm
cho các nước đế quốc Đức, Ý, Nhật…bất mãn với trật tự Vecxai – Woasinhton . Đây
là những nước ít thuộc địa, thiếu vốn, nguyên liệu và thị trường nên muốn tìm
một lối thoát bằng hình thức thống trị mới. Đó là thiết lập chế độ độc tài phát
xít_nền chuyên chính khủng bố công khai của các thế lực phản động nhất [1,tr107].
Những khó khăn, nan giải
về kinh tế làm cho quan hệ giữa các nước tư bản trong thời kỳ này có những
chuyển biến phức tạp. Cuộc cạnh tranh giành giật nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng hóa ngày càng quyết
liệt. Mâu thuẫn giữa các tập đoàn đế quốc ngày càng trở nên gay gắt. Trên
trường quốc tế đã hình thành 2 khối đế quốc độc lập: một bên là Anh, Pháp, Mỹ
với một bên là Đức, Ý, Nhật.
Như vậy, cuộc khủng hoảng
kinh tế 1929 – 1933 không chỉ mang đến những tác động vô cùng to lớn đối với
các nước đế quốc mà nó còn gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với nhân loại.
Cuộc khủng hoảng này đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc lên đến đỉnh
điểm, không thể dung hòa, là tác nhân quan trọng dẫn đến bùng nổ cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ II.
1.4 Tình hình của ba nước Anh, Pháp, Mỹ trong
những năm 20, 30 của thế kỷ XX
1.4.1 Tình hình của nước
Anh trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX
Về kinh tế
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Anh là một trong những nước
thắng trận và là nước có nhiều thuộc địa nhất. Tuy vậy nền kinh tế nước Anh bị
giảm sút rõ rệt do hậu quả của chiến tranh mang lại. Anh bị mất 70 tàu buôn, do
vậy nền ngoại thương giảm sút, chỉ bằng 1/2 trước chiến tranh. Nợ nhà nước tăng
lên gắp 12 lần so với năm 1914. Từ địa vị chủ nợ Anh đã trở thành con nợ của Mỹ
với 5.6 tỉ đôla. Năm 1920, sản lượng công nghiệp Anh giảm sút 32.5% so với năm
1913, xuất khẩu giảm 44%, nhập khẩu giảm 39%. Nhiều nhà máy xí nghiệp bị phá
sản, nạn thất nghiệp tràn lan nhất là các nghành đóng tàu và luyện kim [2,tr182].
Đến năm 1929, cuộc khủng hoảng kinh tế đã lan đến Anh nhưng không
nghiêm trọng như ở Mỹ và các một số nước tư bản khác do nền kinh tế Anh trước
đây vốn đã phát triển chậm chạp. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng lần này cũng lan
ra mọi lĩnh vực. Ngoại thương _ nền kinh tế quan trọng của nước Anh giảm 60%,
công nghiệp năm 1932 giảm 20% so với năm 1929. Các nghành sản suất khác như
gang, thép giảm 1/2 so với năm 1932…[1,tr119].
Trước tình hình đó, chính phủ phải đưa ra một chương trình “tiết kiệm hết sức nghiêm ngặt” nhưng sự
phục hồi và phát triển kinh tế vẫn yếu ớt trong những năm tiếp theo. Năm 1937,
tổng sản lượng công nghiệp mới đạt 124% so với năm 1929. Nước Anh dần đánh mất
vị trí của mình, bị tụt lại phía sau Mỹ, Đức, Ý.
Về chính trị - xã hội
Cuộc khủng hoảng kinh tế này đã tác động tiêu cực đến tình hình chính
trị - xã hội của nước Anh: xã hội rối ren, công nhân thất nghiệp, người dân
không có việc làm kéo theo hàng loạt các vấn đề xã hội khác. Hình thức chính
quyền trong mấy năm sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất là chính phủ liên
hiệp gồm Công đảng, Đảng Bảo thủ và Đảng Tự do. Tháng 5/1918, Đảng Tự do chính
thức bị phân liệt, 98 thành viên của Đảng Tự do dần dần phản đối chính phủ,
phản đối chính sách hợp tác với Đảng Bảo thủ của Lôi Gioóc. Từ đây, vị trí của
Đảng tự do suy giảm không cứu vãn nổi. Đảng Bảo thủ trở thành ngọn cờ tập hợp
giai cấp hữu sản. Tháng 1/1919, chính phủ chỉ gồm Đảng Bảo thủ và Đảng Tự do do
Lôi Gióoc đứng đầu. Trong bối cảnh đó
Công đảng cũng phát triển nhanh: trong cuộc tuyển cử 1992 được 162 ghế (năm
1918 được 60 ghế) [2,tr182].
Đến tháng 10/1922, chính phủ cánh cấp tiến của Đảng Tự do Lôi
Gióoc cầm đầu sau vụ Cớcdơn và những chính sách đối nội phản động buộc phải từ
chức. Chính phủ của Đảng Bảo thủ do Bônna Lâu cầm đầu lên nắm chính quyền [2,tr182].
Chính phủ này tiếp tục thi hành những chính sách đối nội và đối ngoại phản
động, nhất là chính sách chống Nga Xô Viết nên đã gây ra sự bất bình mạnh mẽ
trong lòng quần chúng nhân dân.
Đến năm 1923, Đảng Bảo thủ mất uy tín và Công đảng do Ramsay
Macponald đứng đầu lên nắm chính quyền. Đây là chính phủ Công đảng đầu tiên sau
24 năm thành lập ở Anh. Tuy nhiên, chính phủ Công đảng chỉ cầm quyền 1 năm, vào
cuối năm 1924, đảng Bảo thủ lại nắm quyền trở lại. Lý do cho sự “ra đi” đó là Công đảng chưa có kinh
nghiệm lãnh đạo đất nước và sự hợp sức chống phá của 2 Đảng Bảo thủ và Tự do.
Nhưng từ đây trên chính trường Anh, vị trí của Công đảng đã lớn mạnh hơn trước,
thay thế vị trí của Đảng Tự do, giữ vai trò đảng đối lập với đảng cầm quyền.
Đều đó chứng tỏ sự thất bại phần nào của giới bảo thủ Anh trước trình độ giác
ngộ ngày càng cao của nhân dân lao động.
Từ năm 1925, nước Anh bước vào giai đoạn ổn định về chính trị,
đảng Bảo thủ vẫn nắm chính quyền. Chủ trương khôi phục kinh tế bằng cách đánh
vào quyền lợi của người lao động, có lợi cho giới chủ. Bất bình với chính sách
của chính phủ cắt giảm tiền lương, thợ mỏ Anh đã tổ chức đình công từ ngày
5/5/1926. Lúc đầu số người bải công lên đến 2,5 triệu người, khi cao điểm lên
đến 5 triệu người. Công nhân các nước Đức, Bỉ, Hà Lan…cũng đã thể hiện sự ủng
hộ mạnh mẽ khiến cho chính phủ Anh phải ban bố “tình trạng đặc biệt”.. Chính phủ đã thông qua đạo luật “xung đột giữa chủ và lao động” cấm bãi
công và ủng hộ bãi công, nâng giờ làm việc của công nhân từ 7h lên 8h và giảm
lương của công nhân. Do lực lượng của Công đoàn suy yếu, phái ôn hòa nắm quyền
lãnh đạo Công đoàn chủ trương hợp tác chứ không đối kháng với chính quyền tư
sản nữa [2,tr184].
Chính phủ Anh muốn thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng cách trút
gánh nặng lên người lao động. Lương công nhân bị hạ thấp, đồng bảng hạ giá. Đây
là thời kỳ chính quyền chuyển từ tay chính phủ Công đảng thứ 2 (1929-1931) sang
chính phủ dân tộc (liên hiệp giữa đảng Bảo thủ, Công đảng và tự do quốc gia).
Trong năm 1931-1935, Baldowin đứng đầu (1935-1937) [1,tr186].
Đến năm 1936, nước Anh có sự cố ngai vàng: Vua George qua đời, người
kế vị là một phụ nữ người Mỹ nên phải rời bỏ ngai vàng. Tháng 5-1937, George IV
lên ngôi và tại vị 15 năm. Cũng trong thời gian này, Bandouy từ chức thủ tướng
do tuổi già, kế vị ông là Neville Chamberlain (người của đảng Bảo thủ). Đảng
Bảo thủ chiến đa số với 432 ghế trong quốc hội. Tuy nhiên, Công đảng dần được
phục hồi với 145 ghế và lãnh tụ mới là Attlee Clemen. Tính chất của Công đảng
từ đó trở đi thay đổi so với cương lĩnh ngày đầu thành lập [1,tr186].
Đối với phong trào công nhân, chính quyền Anh chủ trương đàn áp:
ra các đạo luật chống nổi dậy (1935), phạt những người tuyên truyền chống chiến
tranh, luật về trật tự xã hội (1936), hạn chế tối đa quyền dân chủ như tự do
biểu tình, hội họp. Trong khi đó chính quyền lại nới lỏng cho chủ nghĩa phát
xít, thậm chí cho thành lập “Liên hiệp
phát xít Anh” với mưa đồ thiết lập
nền chuyên chính kiểu phát xít Đức,
Italia. Tuy nhiên, do truyền thống dân chủ ở Anh mà chủ nghĩa phát xít đã không
có đất phát triển. Đến cuối những năm 30, chính phủ Sămbeclanh đã lao vào con
đường sản xuất vũ trang, cưỡng sức toàn dân tham gia quân đội, chuẩn bị cho chiến
tranh.
1.4.2 Tình hình của nước
Pháp trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX
Về kinh tế
Việc Đức bại trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã làm
cho Pháp trở thành cường quốc bá chủ ở lục địa châu Âu. Theo hòa ước Vecxai,
Pháp lấy lại được 2 tỉnh Andát và Loren,
được quyền khai thác vùng lòng chảo hạt Xarơ và một bộ phận thuộc địa của Đức ở
châu Phi, củng cố chế độ bảo hộ của Pháp ở Marốc, được nhận tiền bồi thường
chiến phí của Đức…Đó là những điều kiện thuận lợi cho Pháp khôi phục lại nền
kinh tế, phục hồi sản suất ở vùng Đông Bắc, xây dựng khu công nghiệp mới ở miền
Trung, miền Nam và Tây Nam nước Pháp…Tuy nhiên, Pháp vẫn gặp nhiều khó khăn do
nền kinh tế bị thiệt hại nặng nề do chiến tranh mang lại. Tổng thiệt hại nói
chung đến 20 tỉ Ph.răng.
Cách mạng Nga thành công, Pháp đã mất nguồn nguyên liệu quan trọng
do nước Nga cung cấp (55% đường sắt, 75% than), Pháp phải vay nợ Mỹ 4 tỷ USD [1,tr102].
Trong nông nghiệp, ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, tư sản rất nhiều nhưng
vẫn còn hình thức sở hữu ruộng đất trung bình và nhỏ.
Trong những năm 1924-1929, nước Pháp có nhiều thay đổi lớn trong
việc khôi phục, tái thiết nền công nghiệp, mở rộng thị trường, đẩy mạnh khai
thác các nguồn nguyên liệu…Các nghành công nghiệp hàng không, hóa chất,
ôtô…cũng phát triển. Pháp trở thành một nước công nghiệp thực sự, đứng hàng thứ
4 thế giới.
Từ cuối năm 1935, cuộc khủng hoảng diễn ra muộn ở Pháp và kéo dài
đến 1935. Thoạt đầu là ngân hàng, tiếp theo là công nghiệp lâm vào khủng hoảng.
Sản lượng công nghiệp giảm 1/3, trong đó nặng nề nhất là công nghiệp nhẹ: 130
xí nghiệp dệt bị phá sản, ngoại thương giảm 3/5. Trong nông nghiệp có 2 nghành
chính là lúa mỳ và trồng nho đều bị giảm sút. Thu nhập nông phẩm của nông dân
năm 1934 còn 17 tỉ Phrăng (so với 44,8 tỉ Phrăng năm 1929) tức là giảm 2,7 lần [2,tr193].
Thu nhập quốc dân giảm 1/3, khủng hoảng kinh tế là cho quá trình
tập trung tư bản tăng lên. Trong khi 1 vạn chủ xí nghiệp nhỏ và 10 vạn tiểu
thương phá sản thì 200 nhà tư bản tài chính chi phối hoàn toàn nền kinh tế,
chính trị trong nước. Số lượng công nhân thất nghiệp rất đông: năm 1935 có 1/2
triệu người thất nghiệp toàn phần và 50% công nhân thất nghiệp một phần. Hơn
vạn 10 vạn tiểu thương bị phá sản.
Về chính trị
Từ tháng 11/1919, phái hữu của “khối
Quốc gia” lên nắm chính quyền, Cơlêmănsơ làm thủ tướng. Sau đó là Pôn
Đêsamam, Minlơrăng. Chủ trương giải quyết các vấn đề Đức theo hướng có lợi cho
mình. Thi hành chính sách chống Nga và đàn áp các phong trào đấu tranh của công
nhân pháp cũng như nhân dân các nước thuộc địa.
Các tổ chức phát xít như Đảng “Đoàn
kết nước Pháp”, “Thập tự lửa”, được thành lập và ráo riết hoạt động. Tổ
chức “Thập tự lửa” với danh nghĩa hội
cựu chiến binh lôi kéo quần chúng chưa giác ngộ với các khẩu hiệu “bảo vệ nền cộng hòa”, “bảo vệ dân tộc”. Tổ chức ám sát thủ
tướng Pháp Pôn Đume, đổ tội cho gián điệp Liên Xô, làm cớ chống Liên Xô nhưng
đã thất bại. Sau đó cuộc tuyển cử đã đưa
“khối tả’’ lên nắm chính quyền do Eriô đứng đầu nhưng đã sụp đổ sau 3 tháng
cầm quyền.
Trong những năm 1933-1934, các chính phủ liên tiếp bị sụp đổ. Thừa
vụ bê bối Savitski bọn phát xít Pháp, được sự hỗ trợ của Hitle tìm cách cướp
chính quyền.. Đảng Xã hội Pháp chấp nhận lời đề nghị của Đảng Cộng sản tổ chức
cuộc bãi công chung vào ngày 12-2-1934 để chống lại chủ nghĩa phát xít. Tháng
5-1934 mặt trận nhân dân chống phát xít và nguy cơ chiến tranh được thành lập.
Ngày 2-5-1935, hiệp định tương trợ Pháp – Liên Xô được ký kết.
Đến thắng 5/1936, chính phủ của Mặt trận lên nắm chính quyền do
Lêông Blum đứng đầu. Dưới áp lực của quần chúng nhân dân chính phủ này đã thi
hành 1 số chính sách tiến bộ: quốc hữu hóa một bộ phận công nghiệp chiến tranh,
ổn định ngân hàng, xuất tín dụng để giải quyết các vấn đề xã hội….Đối với Đông
Dương, chính phủ Pháp rút bớt quân, ban hành Luật Xã hội, cải cách chế độ lao
động, cử phái đoàn Gôđa sang đều tra tình hình thuộc địa.
Về xã hội
Do khủng hoảng của cuộc kinh tế, đời sống của nhân dân lao động
khó khăn hơn trước. Công nhân nhiều lần đứng dậy bãi công đòi quyền sống, ủng
hộ cách mạng tháng Mười Nga. Xã hội Pháp trở nên rối ren, giai cấp tư bản lũng
đoạn ngày càng gia tăng các hoạt động chống phá chính phủ.
1.4.3 Tình hình của nước
Mỹ trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX
Về kinh tế
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất với những chính sách khôn ngoan
có lợi cho mình, Mỹ trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất. Năm 1919, hàng hóa Mỹ
xuất sang châu Âu đạt 8 tỉ USD. Chỉ trong 6 năm (1923-1929), sản lượng công
nghiệp tăng 69%. Năm 1928, Mỹ chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới, vượt
sản lượng các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Đức, Ý cộng lại. Vốn đầu tư Mỹ ra
nước ngoài đạt 6,4 triệu USD. Dự trử vàng chiếm tới 1/3 thế giới. Mỹ trở thành
trung tâm công nghiệp, thương mại tài chính quốc tế [1,tr104].
Tháng 10/1929, cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng thấy bùng nổ ở
nước Mỹ. Cuộc khủng hoảng gây ra những hậu quả hết sức trầm trọng bắt đầu từ
lĩnh vực tín dụng sau đó lan ra các lĩnh vực khác. Trong những năm này, 13 vạn
công ty bị phá sản, 1 vạn ngân hàng bị đóng cửa, sản lượng thép giảm 76%, sắt
giảm gần 80%, ô tô cũng gần 80%. Tổng
sản lượng công nghiệp chỉ đạt 53,8% so với năm 1929. Trong nông nghiệp, diện
tích deo trồng bị thu hẹp, nông sản năm 1932 chỉ bằng ½
năm 1929.
Tính chung vào năm 1932, thu nhập người dân Mỹ giảm ½ , nạn thất nghiệp lên
đến hàng chục triệu người. Để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng tổng
thống F.Rudơven đã thực hiện đề án “chính
sách mới” của mình. Chính sách mới của F.Rudơven đã đưa tình hình kinh tế
của nước Mỹ khỏi cơn nguy kịch của cuộc khủng hoảng, góp phần cho phép nước Mỹ
duy trì chế độ dân chủ tư sản, tạo ra 1 sự bảo vệ nhất định đối với người lao
động. Tuy nhiên chính sách này cũng gây ra sự phẫn nộ cho giới đại tư bản tài
chính, đại kinh doanh và một số mục tiêu tham vọng của các giai cấp này.
Về chính trị
Dưới thời của Tổng thống Uynsơn tăng cường bóc lột công nhân và
dân trại, khuyến khích công nghiệp chiến tranh để chạy đua vũ trang, chính sách
phân biệt chủng tộc, đàn áp phong trào công nhân, mở các phiên tòa xét xử những
người cộng sản. Nhiều vụ tàn sát người da đen đã diễn ra ở Omaha, Elaine và
nhất là ở Chicagô. Ngày 27/7/1919, tại Chicagô, bọn phân biệt chủng tộc đã giết
chết 38 người, làm bị thương 520 người da đen khác nhằm ngăn chặn gia đình của
họ gia nhập các nghiệp đoàn.
Đến năm 1928, Hoover ứng cử viên của Đảng Cộng hòa trúng cử Tổng
thống, nhiều người Mỹ tin rằng ông ta sẽ làm được đều mà ông ta nói: “Chúng ta sẽ đi đến chỗ xóa sách nạn nghèo
đói hơn bất cứ nước nào trên thế giới” [6tr109]. Nhưng khi Hoover cầm quyền
được mấy tháng thì cuộc khủng hoảng nổ ra gây cho nước Mỹ những hậu quả vô cùng
to lớn.
Đến cuộc bầu cử Tổng thống năm 1932, Đảng Cộng hòa đưa Hoover ra
ứng cử còn Đảng Dân chủ đưa F.Rudơven ra ứng cử. Khi ứng cử F.Rudơven đưa ra đề
án “Chính sách mới” đã đánh bại Tổng thống Hoover_người của Đảng Cộng hòa. Từ
năm 1933, khi trở thành người đứng đầu Nhà Trắng, F.Rudơven bắt đầu thực hiện
chính sách của mình. Tích cực can thiệp vào cuộc chiến, biến đạo luật “trung lập” thành một danh từ trống
rỗng. Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ đã chính thức tuyên chiến sau sự kiện Trân Châu cảng (7/12/1941).
Về xã hội
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất nước Mỹ có những đều kiện thuận
lợi cho phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho người dân. Tuy nhiên, vào
giữa năm 1920 những đều kiện ấy đã chấm dứt vì nhu cầu hàng hóa và sức mua của
người dân Mỹ giảm sút. Tình trạng khủng hoảng này đã làm cho đời sống nhân dân
lao động Mỹ ngày càng khổ cực, số người thất nghiệp ngày càng gia tăng, phong
trào đấu tranh của công nhân diễn ra mạnh mẽ. Năm 1919, ở Mỹ đã có hơn 4 triệu
công nhân bãi công.
Đến năm 1929, cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra ở nước Mỹ đã làm cho
tình hình xã hội nước Mỹ trở nên rối ren, đời sống của người dân lao động khổ
cực vô cùng, nạn thất nghiệp ngày một gia tăng. Đứng trước nạn thất nghiệp và
nghèo đói lan tràn, phong trào của công nhân Mỹ bùng nổ và phát triển. Những
năm 1929 – 1934, số người tham gia bãi công lên tới 3,5 triệu người. “Các cuộc đi bộ vì đói” đầu tiên có tính
chất toàn quốc đã diễn ra của hàng chục vạn công nhân thất nghiệp ở Oashinhton. Để xoa diệu người dân chính quyền
của F.Rudơven đã ban hành đạo luật về cứu tế xã hội. Đạo luật này phần nào đã
giải quyết được việc làm cho người lao động, góp phần duy trì chế độ dân chủ và
bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Chương 2: Mối quan hệ Anh
– Pháp – Mỹ trước chiến tranh thế giới lần thứ II
2.1 Chính sách đối ngoại
của Anh – Pháp – Mỹ trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ
2.1.1 Chính sách đối
ngoại của Anh trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất nền kinh tế nước Anh suy
giảm thì các nước ngoài châu Âu như Mỹ, Nhật không chịu nhiều hậu quả của chiến
tranh, vươn lên mạnh mẽ. Vị thế bá chủ của nước Anh bị lung lay. Anh buộc phải
nhân nhượng Mỹ tại hội nghị Vécxai và hội nghị Oashinhton. Anh cùng các nước đế
quốc can thiệp vào nước Nga Xô Viết nhưng thất bại. Đến ngày 8/8/1919, Anh kí
hiệp định hòa bình, công nhận nền độc lập của Apganixtan. Trong thời kì Công
đảng nắm chính quyền, chính phủ của đảng này đã công nhận Liên Xô và có dự định
ký kết với Liên Xô. Tháng 7/1922, Anh được Hội Quốc Liên trao cho quyền ủy trị
đối với Palextin, kiểm soát tư pháp, đối nội, đối ngoại và đóng quân ở nước
này.
Đến năm 1926, Anh thành lập Khối Cộng đồng Anh. Chính phủ Anh tiếp
tục chính sách câu kết với Mỹ nâng đỡ Đức, dùng Đức làm công cụ để tấn công
Liên Xô. Năm 1927, chính phủ Bảo thủ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
Nhưng đến năm 1928 khi Công đảng trở lại cầm quyền, chính phủ Anh 1 lần nữa tái
lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đến tháng 11/1931, chính phủ Anh ban bố “Quy chế Wesminster” công nhận quyền tự
do của các nước tự trị trong các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Mặt khác, Anh
dùng chính sách bảo hộ thuế quan, ưu đãi buôn bán trong nội bộ đế quốc, chống
lại sự cạnh tranh của các nước đế quốc khác, đã tạo cơ hội cho giới tư bản lũng
đoạn Anh phát triển, song lại tăng thêm mâu thuẫn với các nước đế quốc khác.
Nhìn chung trong những năm trước chiến tranh, mâu thuẫn giữa nước
Anh với các nước phát xít Đức, Ý, Nhật ngày càng gia tăng nhưng chính phủ Anh
vẫn tiếp tục duy trì chính sách ngoại giao bảo thủ, mù quáng, lạnh nhạt với
Liên Xô và ve vãn khối phát xít. Giới cầm quyền Anh trước sau đều cự tuyệt lời
đề nghị từ phía Liên Xô về một hệ thống an ninh chung, đều mà chính người dân
Anh trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 27/6/1935 mong muốn. Còn đối với Đức: năm
1935, Anh ký với nước này hiệp ước Hải quân mà thực chất là dung túng cho Đức
phát triển lực lượng hải quân với quy mô lớn. Chính phủ Anh tuyên bố cái gọi là
“không can thiệp” mà thực chất là
khuyến khích cho hành động xâm lược của Đức, Ý, Nhật và hướng ngọn lửa chiến
tranh về phía Liên Xô. Tuy nhiên, do vai trò của Liên Xô nên Anh đã nhiều lần
thay đổi thái độ. Năm 1934, Anh đề nghị Liên Xô gia nhập Hội Quốc Liên và năm
sau Anh cử phái đoàn do ngoại trưởng Antonio Eden sang Matxcơva đàm phán với
I.V. Stalin và V.M. Môlôtôp. Song từ năm 1936, Anh lại tìm mọi cách để gây ra
cuộc chiến tranh Xô – Đức.
Đến ngày 29/9/1938, Anh ký với Đức Hiệp định không xâm phạm lẫn
nhau. Câu tuyên bố của Thủ tướng N. Sămbéclanh với người Anh: “Tôi sẽ mang lại hòa bình cho các bạn”
trở thành lời hức hẹn dối trá. Có thể thấy rằng chính những hiệp định này là
đỉnh cao của chính sách đối ngoại phản động của nước Anh trong giai đoạn này
nhằm thức đẩy Đức tấn công Liên Xô.
2.1.2 Chính sách đối
ngoại của Pháp trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ
Tháng 11/1919 Cơlêmăngxô lên làm thủ tướng, chính phủ Pháp tìm mọi
cách để giải quyết vấn đề Đức theo hướng có lợi nhất cho mình. Nhưng các nước
Anh, Mỹ lại không muốn làm yếu Đức thêm nữa. Do vậy, chính phủ Pháp thi hành
chính sách chống Nga: cùng Anh, Mỹ can thiệp vũ trang chống Nga Xô Viết, liên
minh với một số nước khác bao vây kinh tế Nga. Đồng thời thực hiện chính sách
đàn áp thuộc địa. Tuy nhiên, những chính sách đối ngoại này của Pháp không thu
lại nhiều kết quả: Pháp phải rút quân khỏi vùng Rua và thất bại trong âm mưu
chống Liên Xô.
Năm 1924, Liên minh cánh tả do Đảng Xã hội là nòng cốt lên cầm
quyền. Chính phủ này ban bố lệnh ân xá…rút quân khỏi vùng Rua, chấp nhận kế
hoạch Đaoxơ, đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô…Tuy nhiên, những hành động
thiên hữu (ký hiệp ước Lôcácnô với Đức) đã làm suy giảm uy tín của nước Pháp
trên trường quốc tế.
Ngày 27/7/1929, sau khi Bơriăn lên cầm quyền, ông ta muốn thành
lập khối liên minh các nước Tây Âu dưới sự lãnh đạo của Pháp. Nhưng kế hoạch
không thực hiện được do vấp phải sự chống đối của người dân trong nước và không
được 1 số nước tư bản chủ yếu ủng hộ, đặc biệt là Anh, Mỹ [1,tr121]. Tuy nhiên
sự kiện này đánh dấu thời kỳ phản động của giới cầm quyền ở Pháp trước khi cuộc
khủng hoảng kinh tế nổ ra. Đến tháng 11/1932, chính phủ của Eriô ký hiệp ước
không xâm phạm với Liên Xô. Tuy nhiên, đến tháng 9/1938, Pháp cùng với Anh,
Đức, Ý ký hiệp ước Muních đã gây ra những làn sóng phản kháng mạnh mẽ từ phía
Đảng Cộng sản và đông đảo quần chúng nhân dân Pháp. Do những hành động phản bội
của giới cầm quyền Pháp, đến đây nền chính trị Pháp đi vào thời kỳ phản động.
Cùng với Anh và Mỹ làm ngơ trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít và hướng
cuộc chiến tranh về phía của Liên Xô
2.1.3 Chính sách đối
ngoại của Mỹ trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ
Ngày 8/1/1918, Tổng thống Mỹ Uynxơn đưa ra kế hoạch 14 điểm với
nội dung chủ yếu là quyền tự quyết cho các dân tộc, các nước tham chiến phải
giải trừ quân bị, thành lập một tổ chức quốc tế có khả năng giải quyết các xung
đột giữa các nước trên thế giới bằng con đường ngoại giao hòa bình. Ngoài ra,
kế hoạch này cũng đặt ra nhiều điều kiện tiên quyết với Đức để bắt đầu đàm
phán, các dân tộc bị Áo – Hung và Thổ Nhĩ Kỳ thống trị có quyền tự quyết nếu họ
muốn tách ra thành các quốc gia độc lập. Về sau, trong ngày độc lập 4/7/1918,
Uynxơn nói rõ và gọn hơn mục tiêu của Mỹ trong chiến tranh. Tiếp đó, Tổng thống
Uynxơn vượt Đại Tây Dương sang dự Hội nghị Pari.
Đến năm 1921, Warren G.Hardinh người của Đảng Cộng hòa lên làm
Tổng thống. Chính phủ của Warren G.Hardinh chủ trương trở lại chủ nghĩa cô lập
truyền thống, không tham gia Hội Quốc Liên để khỏi bị ràng buộc. Tháng 8/1921,
Mỹ ký hiệp ước riêng lẻ với Đức, để bày tỏ sự không hài lòng với hiệp ước
Vécxai, tổ chức hội nghị Oashinton đưa lại nhiều lợi ích cho Mỹ. Tại châu Âu Mỹ
đề ra kế hoạch Đaoxơ, rồi Yơng đưa lại sự phục hồi của chủ nghĩa phátxít Đức.
Đến thời của Tổng thống F.Rudơven thì chính sách đối ngoại của Mỹ
cũng có những thay đổi lớn. Đối với Mỹ Latinh F.Rudơven tray thế “Chính sách chiếc gậy lớn” can thiệp vũ
trang thô bạo bằng “Chính sách láng giềng
thân thiện” mềm dẻo hơn. Trên tinh
thần đó, năm 1934, chính phủ Mỹ đã
thương lượng với Cuba và ký kết hiệp ước hủy bỏ “Tu chính án Platt” chấm dứt các cuộc xâm lược vũ trang vào Cuba,
Haiti, Đôminit, ký với Panama Hiệp ước về kinh đào hạn chế sự kiểm soát của Mỹ
đối với kinh đào này, ký Hiệp ước thương mại với các nước Mỹ La Tinh, hứa hẹn
trao trả độc lập. Một ví dụ điển hình là chính sách với Mêxicô. Theo Hiến pháp
Mêxicô, chính phủ này quốc hữu hóa các công ty dầu lửa của Mỹ. Thay vì đưa quân
can thiệp trước đây, F.Rudơven chỉ đề nghị Mêxicô một khoảng bồi thường tượng
trưng. Tuy Mỹ có thiệt thòi về tài chính, song đổi lại họ được sự ủng hộ quý
báu của láng giềng trong tương lai. Thực chất của “Chính sách láng giềng thân thiện” là một biểu hiện sớm của chủ nghĩa thực dân
kiểu mới mà Mỹ sẽ sử dụng phổ biến trong tương lai, nhằm đối phó lại với các
cuộc đấu tranh chống Mỹ và củng cố địa vị của nước Mỹ ở khu vực Mỹ La Tinh.
Thậm chí tại Hội nghị ở Bêunốt, Tổng thống Mỹ kêu gọi các nước Tây bán cầu cùng
đoàn kết chống lại nguy cơ xâm lược từ bên ngoài. Trước sau, chính sách này
nhằm duy trì sự bốc lột của Mỹ, thu lợi nhuận cho các tập đoàn tư bản lũng
đoạn.
Để thực hiện mưu đồ làm bá chủ thế giới sau này, F.Rudơven đưa ra “Chính sách nhằm đúng từ xa” [4,tr129].
Sau 15 năm theo đuổi chính sách chống nước Nga Xô Viết, rồi Liên Xô, chính phủ
Mỹ do F.Rudơven đứng đầu đã công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên
Xô. Tiếp đó Mỹ ký kết các hiệp định thương mại với Liên Xô, thúc đẩy thương mại
giữa hai nước. Những động thái này cho thấy mặt tích cực của chính sách đối
ngoại của Mỹ trong những năm 30. Mặt khác nó xuất phát từ quyền lợi của Mỹ, nhưng
về thực chất thì chính phủ Mỹ vẫn theo đuổi chính sách “chống cộng” truyền thống của mình.
Đối với các vấn đề nóng bỏng quốc tế nửa sau thập niên 30, chính
phủ Mỹ vừa muốn dùng bàn tay các nước phát xít Đức, Ý, Nhật để chống Liên Xô,
đồng thời lại liên minh với Anh, Pháp chống khối đế quốc phátxit. Mục đích của
Mỹ là cho các nước đánh nhau, bán vũ khí cho cả hai bên, Mỹ ở giữa hưởng lợi.
Đó là chính sách 2 mặt có phần thiếu trách nhiệm trước nguy cơ chủ nghĩa phát
xít và chiến tranh đang đe dọa nền hòa bình và an ninh thế giới. Hàng loạt các
đạo luật (1935 và 1934) được ban bố để Mỹ giữ vai trò trung lập: cấm bán vật
liệu chiến tranh và cấm cho các nước tham chiến vay tiền, cấm công dân Mỹ đi du
lịch trên tàu của các nước tham chiến. Các nước muốn mua hàng không bị cấm của
Mỹ thì phải trả tiền mặt và tự chở lấy (Luật Cash và Carry). Đối với cuộc giao
tranh ngoài biên giới Mỹ: làm ngơ trước hành động xâm lược của phát xít Ý ở Bắc
Phi, của Nhật ở Trung Quốc, từ chối lời đề nghị của Liên Xô lập liên minh chống
Phát xít. Do đó, chính phủ Mỹ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc kí kết
hiệp ước Muynich (9/1938), khuyến khích đến dung túng cho chủ nghĩa phátxít
phát động chiến tranh thế giới.
2.2 Mối quan hệ giữa ba
nước Anh, Pháp và Mỹ trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ
2.2.1 Sự hình thành trục
đế quốc Anh - Pháp - Mỹ
Mặt dầu giới cầm quyền các nước tư bản phương Tây cố tình xoa dịu
mâu thuẫn với các nước phát xít để hướng cuộc chiến tranh về phía Liên Xô,
nhưng mâu thuẫn giữa họ là không thể hòa hoản và xoa dịu nổi. Quy luật phát
triển không đồng đều và quy luật cạnh tranh đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước
này ngày một gia tăng, đặc biệt là giữa Anh và Đức.
Các công ty độc quyền Đức đã thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của các công
ty độc quyền Anh trên các thị trường than và thép ở Hà Lan, Bỉ, Hy Lạp…Đến cuối
năm 1937, Đức đã tăng cường vị trí của mình ở các nước Đông Nam Âu và củng cố
vị trí của mình ở vùng Trung và Cận Đông, đặc biệt là Thổ.
Về phía mình, Anh cố chống lại Đức bằng cách liên hiệp với Pháp,
tổ chức phản công ở Đông Nam Âu và Trung Đông bằng cách cho vay và gây áp lực
đối với giới thống trị các nước này. Quan hệ giữa Anh và Đức vì thế mà diễn ra
ngày một căng thẳng, đặc biệt là khi Đức đòi lại các thuộc địa bị giao cho các nước thắng trận sau chiến
tranh thế giới thứ nhất: Tây Nam Phi, Camarum, Tôgô [4,tr166].
Bên cạnh đó mâu thuẫn giữa Mỹ và Đức cũng trở nên gây gắt, mâu
thuẫn này bắt nguồn từ sự cố gắng làm bá
chủ thế giới của cả 2 nước. Các nước phát xít tấn công vào các vị trí kinh tế
của Mỹ ở Viễn Đông và Thái Bình Dương. Đều này không tránh khỏi việc thúc đẩy
Mỹ ngày càng xích lại gần với Anh và Pháp hơn. Đưa 3 nước này đi đến một liên
minh chính trị quân sự tạm thời do Mỹ lãnh đạo.
Mâu thuẫn giữa Pháp và Đức là do ý muốn thanh toán hệ thống hòa
ước Vécxai Oashinhton, thống trị lục địa châu Âu. Ở Rumani, Tiệp Khắc, Thổ,
Balan cuộc đấu tranh ngầm giữa các công ty độc quyền Pháp và Đức không ngừng
diễn ra. Các liên minh của Pháp ở châu Âu có nguy cơ bị sụp đổ. Những kế hoạch
thuộc địa của Đức đe dọa các thuộc địa của Pháp ở châu Phi cũng gây ra sự đe
dọa cho giới cầm quyền Pháp.
Mâu thẫu giữa Anh, Mỹ với Nhật cũng ngày càng gây gắt do âm mưu
của Nhật muốn độc chiếm Trung Quốc, gạt bỏ quyền lợi của Anh, Mỹ ở Trung Quốc
và Đông Nam Á. Hồng thiết lập quyền bá chủ của Nhật ở Thái Bình Dương và Viễn
Đông. Đồng thời mâu thuẫn giữa Pháp, Anh với Ý cũng gia tăng do tham vọng của Ý
muốn biến Địa Trung Hải thành “cái hồ của
Ý” [4,tr166]. Chiếm các tỉnh của Pháp như Nixơ, Xavoa và đất đai của Pháp ở
Bắc Phi và những thuộc địa của Anh ở Trung Đông và châu Phi.
Đến tháng 10/1936, ngoại trưởng Ý là Xianô bay sang Đức tiến hành
đàn phám với các nhà lãnh đạo Đức về “chính
sách chung của 2 nước”. Sau cuộc đàm phán, ngày 1/11/1936 Mútxôlini tuyên
bố sự tồn tại của “Trục Béc lin - Rô ma”. Cũng trong tháng đó, Đức đã ký
với Nhật hiệp định chống Quốc tế cộng sản. Một năm sau, ngày 6/11/1937, theo đề
nghị của chính phủ Đức, Ý cũng chính thức gia nhập “hiệp định chống Quốc tế cộng sản”. Như thế là đã hình thành nên 1 “Trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkiô”.
Trước sự hình thành “Trục
tam giác Béclin – Rôma – Tôk ô” thì giới thống trị của ba nước Anh - Pháp -
Mỹ cũng phải đưa ra những lời tuyên bố chống chủ nghĩa Phát xít và cam kết ủng
hộ lẫn nhau khi bị tấn công. Trục đế quốc Anh – Pháp – Mỹ đã được hình thành.
Như vậy, trước sự hình thành trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkyô,
các nước Anh – Pháp – Mỹ buộc lòng phải có những cam kết với nhau, trên cơ sở
đó trục đế quốc Anh – Pháp – Mỹ hình thành và ngày càng được củng cố. Trong khi
Anh và Pháp thì tỏ ra nhân nhượng, không có động thái nào rõ ràng trước hành động
bành trướng của chủ nghĩa Phát xít và phần nào đó tiếp tay cho chủ nghĩa phát
xít thì Mỹ lại đứng trung lập. Các nước Anh – Pháp – Mỹ do cùng chung quyền
lợi, muốn giữ nguyên trật tự thế giới. Họ lo sợ chủ nghĩa phát xít nhưng lại
thù ghét chủ nghĩa cộng sản. Vì thế họ đã thi hành chính sách 2 mặt: Một mặt
hợp tác với Liên Xô để tăng cường sức mạnh cho mình; mặt khác họ thỏa hiệp và
nhượng bộ phát xít để tránh chiến tranh về phía mình và hướng cuộc chiến tranh
về phía Liên Xô.
2.2.2 Thái độ của Anh –
Pháp – Mỹ đối với các bên tham chiến
2.2.2.1 Thái độ của Anh –
Pháp – Mỹ đối với phe phát xít
Mặt dầu mâu thuẫn sâu sắc với chủ nghĩa phát xít song Anh, Pháp và
Mỹ luôn muốn dùng bàn tay của chủ nghĩa phát xít để tấn công Liên Xô nên đã thi
hành chính sách nhất quán: nuôi dưỡng, dung túng, xoa dịu và nhượng bộ cho chủ
nghĩa phátxít dù có phải hy sinh nhiều quyền lợi của mình cũng như của các nước
khác. Do vậy, giới cầm quyền Anh – Pháp đã thi hành chính sách nhằm khôi phục
chủ nghĩa quân phiệt Đức: “Năm 1924, các nước Anh – Pháp – Mỹ thông qua kế
hoạch Đaoxơ cho Đức vay tiền để phát triển kinh tế. Năm 1925 ký hiệp ước
Lôcácnô bảo đảm tôn trọng biên giới phía Tây của nước Đức và mời Đức tham gia
vào Hội Quốc Liên. Từ đó Đức nghiễm nhiên sánh ngang hành với các nước thắng
trận trong Hội Quốc Liên” [3,tr33].
Sau khi phátxít lên nắm chính quyền ở Đức thì quan hệ kinh tế và
thương mại giữa tư bản độc quyền Mỹ và Đức được mở rộng và chặt chẽ hơn trước.
Hơn 200 công ty tư bản độc quyền Mỹ góp sức vào việc tái vũ trang nước Đức. Tư
bản Anh ký với Đức hiệp định hải quân, không quân. Làm như vậy chính phủ Anh –
Pháp – Mỹ tin rằng phát xít Đức sẽ dựa vào sự giúp đỡ của họ để tấn công Liên
Xô. Còn Hítle thì lợi dụng chính sách chống Liên Xô của Anh – Pháp – Mỹ để
chuẩn bị chiến tranh. Y đã từng tuyên bố với các cận thần của Y rằng: “Tôi phải chơi bóng bàn với chủ nghĩa tư
bản” [3,tr33].
Chính thái độ làm ngơ này của Anh, Pháp, Mỹ đã khiến cho chủ nghĩa
phátxít càng mạnh tay hơn trong việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Mãi cho đến khi trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkyô hình thành thì ba
nước Anh, Pháp, Mỹ mới có những động thái để chống lại chủ nghĩa phát xít. Giới
cầm quyền của các nước này đã xích lại gần nhau hơn và tuyên bố chống lại chủ
nghĩa phát xít. Tuy nhiên, lúc đầu những lời tuyên bố của giới cầm quyền Anh,
Pháp, Mỹ chỉ là trên chót lưỡi. Họ không thực sự thực hiện triệt để những gì mà
mình đã tuyên bố cũng như không thực hiện triệt để những gì mà ba nước này đã
ký kết với Liên Xô. Với ảo tưởng là có
thể lợi dụng được chủ nghĩa phát xít tấn công Liên Xô nên các nhà cầm quyền
Anh, Pháp, Mỹ đã thi hành “chính sách
không can thiệp” hay “trung lập”
và sau này là “chính sách hai mặt”.
Những chính sách này đã bọc lộ rõ thái độ dung túng, nhân nhượng, không có động
thái rõ ràng của các nước trong khối đế quốc trước hành động bành trướng của
chủ nghĩa phát xít. Họ lo sợ chủ nghĩa phát xít nhưng lại thù ghét chủ nghĩa
Công sản. Chính đều này là tác nhân quan trọng dẫn đến một cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ hai_cuộc chiến tranh đã để lại những hậu quả to lớn chưa từng
thấy trong lịch sử chiến tranh của nhân loại.
2.2.2.2 Thái độ của Anh –
Pháp – Mỹ đối với Liên Xô
Sau khi cách
mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi, nước Nga Xô Viết ra đời đã cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đều
này đã đe dọa trực tiếp đến hệ thống thuộc địa của các nước tư bản, đặc biệt là
Anh, Pháp, Mỹ. Do vậy, Anh, Pháp, Mỹ luôn có thái độ thù địch với Liên Xô, các
nước này tìm đủ mọi cách để ngăn chặn ảnh hưởng cũng như tiêu diệt Nhà nước
công nông đầu tiên trên thế giới. Họ nhanh chống thống nhất nguyên tắc phải
tăng cường can thiệp vũ trang tấn công Liên Xô, ủng hộ các nước láng giềng
Balan, Rumani tấn công, lật đổ chính quyền Xô Viết. Trong giai đoạn này các
nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ xem chủ chủ nghĩa cộng sản là mối đe dọa nguy hiểm
nhất đến sự thống trị của họ. Cho nên các nước này đã thi hành chính sách hai
mặt với Liên Xô: vừa hợp tác với Liên Xô chống phát xít, vừa lợi dụng bàn tay
của chủ nghĩa phát xít để tiều diệt Liên Xô. Đều này cho thấy thái độ của Anh,
Pháp, Mỹ là nhất quán trong vấn đề tiêu diệt Liên Xô_tiêu diệt bức tường thành
của chủ nghĩa cộng sản. Còn những vấn đề khác liên quan đến quyền lợi của nước
Liên Xô thì các nước đế quốc lờ đi. Chính nhà lý luận quân sự người Anh đã phải
thừa nhận các nước đồng minh “đã làm quá
ít” để trả cho nước Nga những gì nước Nga “đã hi sinh để mang lại rất nhiều cho đồng minh” [1,tr178].
Tuy nhiên, khi cuộc chiến
tranh thế giới sắp nổ ra, các nước nước đế quốc nhận thấy được mối đe dọa từ
chủ nghĩa phát xít đối với lợi ích của chính họ. Những ảo tưởng của các nước
này về việc lợi dụng chủ nghĩa phát xít tiêu diệt Liên xô đã tan vỡ. Chính phủ
Anh và Pháp mới có xu hướng đàm phán với Liên xô. Tuy nhiên, những tuyên bố đó
vẫn là trên chót lưỡi, chưa thật sự thực hiện triệt để những cam kết đối với
Liên Xô về vấn đề chống phát xít. Họ vẫn có thái độ bàng quan, thờ ơ, “tọa sơn xem hổ đấu” để làm “ngư ông đắc lợi” trong cuộc chiến này.
Chính thái độ này của ba
nước Anh, Pháp, Mỹ đối với phát xít và Liên Xô đã làm cho chủ nghĩa phát xít không
còn e dè trong việc chuẩn bị chiến tranh. Họ hô hào “chống chủ nghĩa cộng sản”, “chống Liên Xô” nhưng thật chất đều mà
chủ nghĩa phát xít hướng đến là một cuộc chiến tranh để phân chia lại thị
trường, phạm vi chiếm đóng và ảnh hưởng trên trường quốc tế.
Chính phủ Anh – Pháp – Mỹ
đã có những hành động nhân nhượng, thỏa hiệp, dung túng cho chủ nghĩa phát xít
Đức – Ý – Nhật hoành hành nhằm thực hiện những ý đồ chiến lược sâu xa của mình_đó
là tiêu diệt Liên Xô. Còn các vấn
đề mà Liên Xô đưa lên thảo luận trong thời gian này trong các Hội nghị tại Hội
Quốc Liên, những cố gắng về việc thành lập các tổ chức tương trợ bảo vệ an ninh
tập thể thì lại không được chấp nhận. Những mâu thuẫn phức tạp và căng thẳng
giữa hai khối đế quốc Anh – Pháp – Mĩ và Đức – Ý – Nhật không hề ngăn cản những
thỏa hiệp giữa họ, đặc biệt là trong vấn đề chống Liên Xô. Như vậy, với chính
sách hai mặt của các cường quốc phương Tây đã tạo điều kiện cho phe phát xít
lợi dụng, kéo dài thời gian chuẩn bị mọi mặt hoàn chỉnh để thực hiện dã tâm của
mình.
PHẦN KẾT LUẬN
Sau
chiến tranh thế giới lần thứ nhất, bản thân ba nước Anh, Pháp và Mỹ đều có
những mâu thuẫn nhất định với nhau trong việc phân chia phạm vi đóng quân và
khu vực ảnh hưởng của nhau. Tuy nhiên, từ năm 1917 khi cuộc cách mạng tháng
Mười Nga thắng lợi_nhà nước Nga Xô Viết ra đời. Các nước Anh, Pháp và Mỹ luôn
đạt đến sự nhất quán, đặc biệt là giữa Anh và Pháp, luôn có sự sát cánh bên nhau
trong mọi động thái, chủ trương.
Tuy
nhiên, những mâu thuẫn phức tạp trong khối đế quốc Anh – Pháp – Mỹ không hề
ngăn cản được những thỏa hiệp giữa họ, đặc biệt là trong vấn đề chống Liên Xô.
Ba nước này đã bắt tay nhau thi hành chính sách nhân nhượng, thỏa hiệp vô
nguyên tắc với phe phátxít, làm cho khối phátxít có cơ hội và tranh thủ thời
gian chuẩn bị lực lượng, vũ khí cho một cuộc chiến tranh mới nhằm phân chia lại
thế giới.
Các
nước Anh, Pháp, Mỹ luôn muốn duy trì
trật tự thế giới có lợi cho mình. Họ lo ngại sự lớn mạnh của chủ nghĩa
phát xít nhưng vẫn luôn thù ghét Liên Xô. Vì thế Anh và Pháp đã thi hành chính
sách hai mặt: Một mặt là thỏa hiệp với Liên Xô để tăng sức mạnh cho mình; mặt
khác họ thỏa hiệp và nhượng bộ phe phát xít để tránh chiến tranh về phía mình
và hướng ngọn lửa chiến tranh về phía Liên Xô. Họ ảo tưởng rằng có thể lợi dụng
bàn tay của chủ nghĩa phát xít để tiêu diệt bức thành trì của chủ nghĩa xã hội_tiêu
diệt nhà nước Liên Xô. Nhưng đều đó không thể nào thực hiện được do dã tâm và
tham vọng của chủ nghĩa phát xít là rất lớn_chủ nghĩa phát xít ngoài mặt thì hô
hào chống Liên Xô, chống chủ nghĩa Cộng sản nhưng thật chất đó chỉ là cái áo
khoác ngụy trang của mình. Cái mà chủ nghĩa phát xít hướng đến đó là một cuộc
chiến tranh nhằm phân chia lại thế giới.
Trước
động thái đó của chủ nghĩa phát xít, cụ thể là sự hình thành trục tam giác
Béclin – Rôma – Tôkiô, các nước Anh, Pháp, Mỹ buộc lòng phải thay đổi thái độ
và hành động của mình. Ba nước này cam kết (tuy không ký hiệp ước) sẽ ủng hộ
nhau khi bị tấn công. Nhưng trong thái độ của họ vẫn có sự chờ đợi và hướng
cuộc chiến tranh về phía Liên Xô. Những chính sách không rõ rằng này của Anh,
Pháp, Mỹ không chỉ dẫn đến những mâu thuẫn với phe phát xít mà nó còn dẫn đến
những mâu thuẫn với Liên Xô.
Có
thể nói rằng mối quan hệ giữa các nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ ở giai đoạn này là
sự hội tụ của những mâu thuẫn chằng chéo mà trọng tâm là ba lực lượng đối lập:
Phát xít, Đế Quốc và Liên Xô. Nhưng do chính sách “dung túng” của Anh, Pháp và chính sách “trung lập” của Mỹ đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa phát phít phát
triển và lớn mạnh. Những chính sách trên của ba nước Anh – Pháp – Mỹ trong giai
đoạn này (1919 – 1939) là một trong tác nhân quan trọng dẫn đến sự bùng nổ cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ 2_cuộc chiến tranh đã mang đến những hậu quả nặng
nề nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Do vậy, các nước Anh, Pháp, Mỹ
phải chịu một phần trách nhiệm khi dung túng cho chủ nghĩa phát xít lộng hành
và những tổn thất to lớn mà nhân loại phải gánh chịu qua trong cuộc chiến tranh
thế giới lần thú 2 này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lê Văn Anh (CB), Hoàng Thị Minh Hoa, Đinh Thị Lan, Bùi Thị Thảo
(2013), “Lịch sử thế giới hiện đại”, Nxb Đại học Huế.
2.
Đỗ Thanh Bình (chủ biên), Nguyễn Công Khanh, Ngô Minh Oanh, Đặng
Thanh Toán (2008), Lịch sử thế giới hiện đại, quyển 1, Nxb Đại học sư phạm.
3.
Hoàng Thị Minh Hoa, Đinh Thị Lan, Trần Thị Vinh (1997), Đại cương
lịch sử quan hệ quốc tế, đại học Huế
4.
Nguyễn Lam Kiều, Nguyễn Anh Thái, Nguyễn Xuân Kỳ (1978), Lịch sử
thế giới hiện đại (1917-1929), Nxb Giáo dục.
5.
Vũ Dương Ninh (chủ biên),
Phan Văn Ban, Nguyễn Văn Tận, Trần Thị Vinh (2010), Lịch sử quan hệ quốc tế từ
thời cân đại đến kết thúc thế chiến thứ 2, Nxb Đại học sư phạm.
6.
Lê Văn Quang (2002), Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945, Nxb
giáo dục.
7.
Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Đỗ Thanh Bình, Nguyễn Quốc Hùng, Vũ
Ngọc Oanh, Đặng Thanh Toán, Trần Thị Vinh (2002), Lịch sử thế giới hiện đại,
Nxb Giáo dục.
8.
Trần Thị Vinh (chủ biên), Lê Văn Anh (2008), Lịch sử thế giới hiện
đại, quyển 2, Nxb Đại học sư phạm.
Một số trang web tham
khảo
PHỤ LỤC
Đám đông bên ngoài Ngân hàng Liên hiệp Mỹ của bang New
York trong thời gian đột biến rút tiền gửi giai đoạn đầu của Cuộc đại suy thoái
1929-1933.
(Nguồn: http://diepdoan.violet)
Ngày thứ năm đen
tối 24-10-1929; 1,2 tỷ cố phiếu Mỹ được bán làm
thị trường chứng khoán Mỹ rung động .
Hội nghị Munich.
(Nguồn: http://www.katyn.org)
Hitler và đại diện các nước Anh, Pháp tại lễ ký hiệp
Hiệp định Munich 1938.
Lễ ký kết hiệp ước chống Quốc tế cộng sản giữa Đức, Ý
và Nhật Bản.
Ngày 30-1-1933 tổng thống Hinđenbua trao quyền Thủ tướng cho Hítle.
(Nguồn: http://www.katyn.org)
Mussolini đã gặp Hitler tại Munich, Đức trong thời
gian diễn ra Hội nghị Munich.
Mussolini
và Hitler trong thời gian đỉnh cao quyền lực.
(Nguồn:
http://vi.wikipedia.org)
Trùm phát xít Italia Benito Mussolini với Hitler.
Đại
Nguyên soái Joseph V. Stalin, người lãnh đạo Cuộc chiến tranh Vệ Quốc Vĩ đại.
(Nguồn:
http://vi.wikipedia.org)
Thủ tướng Anh Neville Chamberlain (1937-1940)
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org)
No comments:
Post a Comment