Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 22 – 12 – 1944, mà
tiền thân của nó là đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Lễ thành lập được tổ chức tại khu rừng Sam Cao nằm giữa
hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám thuộc Châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng
(nay là huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Ban đầu gồm 34 chiến sỹ trong đó có
3 nữ với 34 khẩu súng các loại do Võ
Nguyên giáp chỉ huy chung; Hoàng
Sâm được chọn làm đội trưởng; Xích Thắng, tức Dương
Mạc Thạch, làm chính trị viên, Hoàng Văn Thái phụ trách tình báo và kế hoạch tác chiến; Lâm Cẩm Như, tức Lâm
Kính, phụ trách công tác chính trị; lộc Văn Lùng tức Văn
Tiên làm quản lý.Từ đó đến nay trải qua hơn 70 năm hình
thành và phát triển Quân đội nhân dân Việt Nam đã trải qua nhiều khó khăn gian
khổ trong chiến tranh, lẫn thời bình luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao. Xứng đáng với lời khen ngợi của Bác Hồ vào ngày 22 – 12 -1964 “Quân đội
ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Lời khen
ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quân đội ta đã khẳng định rõ những phẩm
chất cao quý, chức năng và nhiệm vụ của quân đội nhân dân Việt Nam.
Trước hết là, lòng trung thành vô hạn với tổ quốc, hy sinh vì độc
lâp tự do của dân tộc, lí tưởng xã hội chủ nghĩa.
Từ khi ra đời đến nay,
Quân đội ta luôn luôn thực hiện trọn vẹn chữ trung với nước, dù trong những
hoàn cảnh vô cùng khó khăn thử thách. Đó là một phẩm chất cao quý của quân đội
cách mạng, và cũng chỉ có các lực lượng vũ trang cách mạng mới có lòng trung
thành vô hạn với lợi ích dân tộc. Ở mọi hoàn cảnh lịch sử, với các yêu cầu,
nhiệm vụ của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc, Quân đội ta đã phát huy cao nhất
lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, kiên định con đường phát triển mà dân
tộc đã chọn. Ngay sau khi thành lập, Quân đội ta, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đánh thắng hai trận mở đầu ở Phay
Khắt và Nà Ngần với súng kíp và gậy tầm vông để rồi từ đó dần phát triển, cùng
dân tộc giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sau đó cùng dân tộc
đánh bại thực dân Pháp, đế quốc Mĩ hai kẻ thù có tiềm lực quân sự mạnh nhất bấy giờ , làm cho nước nhà hoàn
toàn thống nhất và tạo điều kiện để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó
chứng minh rằng, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn luôn thấm nhuần sâu sắc các
giá trị truyền thống của dân tộc, nhất là truyền thống đánh giặc giữ nước. Có
thể nói, Quân đội ta từ dân tộc mà ra, hoà vào dân tộc, sát cánh cùng đại gia
đình dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phẩm chất trung với nước,
với dân tộc, cùng những đóng góp to lớn của quân đội vào sự nghiệp vĩ đại của
dân tộc vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của mối quan hệ máu thịt giữa dân
tộc Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự hình thành, phát triển phẩm chất
trung với nước, với dân tộc đã giúp cho Quân đội ta không chỉ mang bản chất
giai cấp, bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản Việt
Nam, mà còn mang đậm tính dân tộc.
Thứ hai, tin tưởng tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tin tưởng tuyệt đối vào
sự lãnh đạo của Đảng, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim
chỉ nam, có thể nói là một trong những nguyên tắc cơ bản bất di, bất dịch đã
trở thành truyền thống tốt đẹp của quân đội nhân dân Việt Nam.
Thực
tiễn đã chứng minh trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành,
dưới sự lãnh đạo Đảng và Bác, sự nuôi dưỡng của nhân dân, thì quân đội ta ngày
càng trưởng thành và hùng mạnh hơn. Đảng ta rất tự hào về quân đội anh hùng của một
dân tộc anh hùng. Vì rằng, từ Đội Tự vệ Đỏ trong phong trào Xô Viết Nghệ -
Tĩnh,Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đến Quân đội nhân dân Việt Nam hùng
mạnh ngày nay, Quân đội ta luôn luôn trung thành sắt son với Đảng, là công cụ
vũ trang, là lực lượng chính trị rất tin cậy của Đảng và Nhà nước, hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Trong những hoàn cảnh khó
khăn, toàn quân luôn luôn một ý chí ủng hộ và bảo vệ Đảng, thực hiện thắng lợi
đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng, sẵn sàng chiến đấu cao để chặn đứng
mọi âm mưu, thủ đoạn của các lực lượng thù địch phá hoại Đảng và Nhà nước. Đó
cũng là kết quả lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Điều
đó được thể hiện trong bất luận hoàn cảnh nào, Quân đội nhân dân Việt Nam cũng
luôn luôn một lòng trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Mục
tiêu cách mạng của Đảng, chính là mục tiêu chiến đấu của quân đội; bản chất
giai cấp công nhân của Đảng, chính là bản chất chính trị của quân đội, luôn
thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, bảo vệ thành quả cách mạng.
Thứ ba,
luôn hiếu với dân.
Quân đội
nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, quân với dân như cá với nước. Trong suốt
những cuộc kháng chiến của dân tộc thì quân đội ta luôn nhận được sự giúp đỡ,
yêu thương đùm bọc của nhân dân. Không chỉ trong thời chiến mà ngày cả trong
thời bình cũng vậy khi nhắc đến bộ đội thì nhân dân luôn tin yêu vui vẻ giúp đỡ
mọi việc, đủ để thấy tình cảm của nhân dân ta đối với quân đội như thế nào. Vì sao nhân dân ta lại tin yêu bộ đội như vậy để trả lời cho câu
hỏi này không khó bởi vì: Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta đã anh dũng
hy sinh trên các chiến trường vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi sự xâm lược
là một chứng minh hùng hồn cho sự tin yêu đó. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội còn
thường xuyên tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức và
thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời, hết lòng giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, văn hoá, bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Hành động cùng ăn, cùng ở, cùng làm của cán bộ, chiến sĩ Quân
đội đã có tác dụng gắn bó Quân đội với nhân dân. Sự tham gia tích cực của quân
đội vào nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo cho nhân dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, càng làm đẹp hơn, sâu sắc hơn truyền thống
hiếu với dân.
Cuối cùng, quân đội nhân
dân Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù
nào cũng đánh thắng.
Trong lịch sử hào hùng
của dân tộc ta không thiếu những tấm gương anh dũng hy sinh thân mình để hoàn
thành nhiệm vụ đảm bảo mọi hoạt động của tổ chức, phục sự cho Tổ quốc như anh
hùng: Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng trở thành một trong những tấm gương
tiêu biểu của quân đội nhân dân Việt Nam, hay anh hùng Phan Đình Dót lấy thân
mình lấp lỗ châu mai để cho đồng đội tiến đánh đồi Him Lam được thuận lợi ...
và nhiều tấm gương khác nữa. Sự dũng cảm hy sinh thân minh của các anh hùng nói
riêng và quân đội Việt Nam nói chung là vô cùng to lớn, để đất nước ta có được
như ngày hôm nay.
Tóm lại, đó là những phẩm
chất tốt đẹp của quân đội ta mà thế hệ trẻ cần học tập và noi theo. Là thế hệ
trẻ của đất nước để hướng tới ngày kỷ niệm 71 năm ngày thành lập quân đội nhân
dân Việt nam thì chúng ta hãy học tập và phát huy hơn nữa những truyền thống mà
cha ông để lại, để khi nhắc đến dân tộc Việt Nam thì chúng ta luôn tự hào chúng
ta là một dân tộc anh hùng, luôn có những anh hùng không kể thời bình hay thời
chiến và anh húng trên tất cả các lĩnh vực
VÕ THỊ ÁNH DIỆP
SINH VIÊN LỚP SỬ 3A - KHOA LỊCH SỬ - ĐHSP HUẾ