Cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng,
ông là một người học trò, người cộng sự thân thiết của Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, là một nhà chính trị xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, tư duy
sáng tạo, văn hóa uyên bác. Ông có rất nhiều công lao to lớn đóng góp
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc ta và bảo vệ. Xây dựng đất nước trong
thời kì chiến tranh và đổi mới. Một con người có nhân cách lớn ,dù có rất nhiều
công lao lớn với dân tộc, nhưng ông luôn sống giản dị, chân thành, ông có
tấm lòng nhân ái, bao dung,vị tha, luôn được người dân và bạn bè Quốc
tế yêu mến.
Trong thời kì kháng chiến chống
Pháp (1945-1954):
Ông đã sớm có lòng yêu nước, căm thù giặc, sớm giác ngộ cách
mạng. Khi còn đi học ở quê, ông đã biết đến Nguyễn Ái Quốc qua các báo Người cùng khổ,
Nhân đạo, Tạp chí thư tín quốc tế.
Ông tham gia phong trào bãi khóa chống Pháp của học
sinh, sinh viên năm 1925, khi Phan Châu
Trinh mất. Năm1926, ông sang Quảng Châu dự lớp huấn
luyện cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và gia
nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Đến năm 1929, ông được cử vào Kỳ bộ Nam Kỳ, rồi vào Tổng bộ Việt
Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và tham gia đại hội của tổ chức
này họp ở Hồng Kông. Tháng 7 năm 1929, ông
bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Năm 1936, ông ra tù, hoạt động ở Hà Nội. Năm 1940, ông bí mật sang Trung Quốc cùng
với cố thủ tướng Võ
Nguyên Giáp,
gia nhập vào Đảng
Cộng sản Đông Dương.
Ông là người có công lớn trong việc thành lập Mặt Trận
Việt Minh ( tiền thân của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam). Tham gia đào tạo cán bộ
của Mặt trận Việt Minh, phụ trách báo Việt Nam độc lập, chỉ đạo xây
dựng Khu giải phóng, chuẩn bị lực lượng tiến tới Tổng khởi nghĩa; được Quốc dân
đại hội Tân Trào cử làm Uỷ viên Thường trực Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, được Quốc hội khoá I bầu làm Phó Trưởng ban Thường trực
Quốc hội.
Trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được cử làm Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ trực tiếp chỉ đạo kháng chiến ở Nam Trung Bộ, được bổ sung làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong những ngày công tác tại đây, Phạm Văn Đồng đã có
những cống hiến to lớn và sáng tạo trong việc xây dựng vùng tự do Nam - Ngãi - Bình - Phú; chỉ đạo cuộc kháng chiến các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, phát triển mối quan hệ hợp tác, đoàn kết chiến đấu với lực lượng cách mạng các nước bạn
Lào và Campuchia, xây dựng và củng cố căn cứ địa kháng chiến với khẩu hiệu Tự lực cánh
sinh, chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc trường kỳ kháng chiến.
Năm 1954, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Chính
phủ dự Hội
nghị Giơneve về Đông
Dương. Những đóng góp của đoàn Việt Nam do ông đứng đầu là vô cùng quan trọng,
tạo ra những đột phá đưa Hội nghị tới thành công. Trải qua 8 phiên họp
toàn thể và 23 phiên họp rất căng thẳng và phức tạp, với tinh thần
chủ động và cố gắng của phái đoàn Việt Nam, ngày 21/7/1954, bản
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Campuchia và Lào đã được
ký kết thừa nhận tôn trọng độc lập, chủ quyền, của nước Việt Nam, Lào và
Campuchia.
Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ (1954- 1975): Trong thời kì này
ông đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho đất nước.
Tháng
9 năm 1954, ông kiêm chức Bộ trưởng Ngoại
giao nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng ban Đối ngoại TW Đảng. Từ tháng 9 năm 1955, ông là Thủ
tướng Chính phủ của
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
Đấu
tranh trên mặt trận ngoại giao. Ông đã nhiều lần là trưởng đoàn đi thăm chính
thức các nước xã hội chủ nghĩa anh em và bè bạn, tham dự nhiều Hội nghị quốc tế
quan trọng như Hội nghị Băng Đung (1955), Hội nghị cấp cao nhân dân các nước
Đông Dương, nhiều hội nghị cấp cao các nước Phong trào không liên kết, Hội đồng
tương trợ kinh tế và nhiều hội nghị quốc tế quan trọng khác,đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam, lập trường và quan điểm của ông luôn nhằm mục tiêu vì độc lập, chủ
quyền, thống nhất Tổ quốc; vì hoà bình, hữu nghị và tiến bộ giữa các dân tộc
theo tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên cơ sở hợp tác, tôn
trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Với những quan điểm có tính nguyên tắc,
tài thuyết phục và tình cảm chân thành, trong các hoạt động ngoại giao, Ông đã
nhận được những tình cảm thân thiết, sự kính trọng và cảm phục. Nhiều chính
khách, bạn bè quốc tế nhận xét: Cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng "là một trong những nhân vật xuất sắc và có ảnh hưởng
lớn nhất ở Việt Nam trong thế kỷ XX, nhờ những khả năng siêu phàm về ngoại giao
cũng như uy tín, ảnh hưởng to lớn ở trong nước".
Với sự chỉ đạo của ông,
chúng ta đã thành công trong việc đàm phán với Mĩ tại hiệp đinh Pari tại Pháp (
1973). Giúp chúng ta ngày tiến gần hơn với thống nhất một nhà, Bắc Nam sum họp
thành một nhà.
Ông luôn có những chủ trương đúng đắn, đường
lối sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Bảo vệ đất nước trước sự xâm
lược của đế quốc Mĩ, toàn lực chi viện cho miền Nam: thuốc men, lương thực,
thực phẩm, khí giới, nhân lực,...Đồng thời, đấu tranh bảo vệ miền Bắc trước sự
tấn công, phá hoại của đế quốc Mĩ. Bên cạnh đó, ông còn đưa học sinh, sinh viên
miền Nam vào miền Bắc để học tập trong điều kiện hết sức khó khăn. Ông luôn
bình tĩnh, đưa ra những chính sách đúng
đắn, phù hợp, trước những khó khăn, tình huống bất ngờ, nước sôi lửa bỏng, muôn
trùng khó khăn của đất nước.
Đất nước thống nhất: Sau khi đất
nước thống nhất, chúng ta hoàn thành công cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì
(1954-1975), đất nước thu về một mối, ông đã có những chính sách phù hợp, khôi
phục lại đất nước sau chiến tranh.
Tinh thần trách nhiệm cao trước những khó khăn,
yếu kém trong công tác quản lý, điều hành các lĩnh vực kinh tế - xã hội, ông
nói: “Cần nói ngay về tính hiệu quả của Hội đồng Bộ trưởng, mà chủ yếu là hiệu
quả công tác của đồng chí Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Ai ai cũng thấy trong
nhiều năm, nhất là trong 10, 12 năm trở lại đây, chúng ta phải nhận với nhau là
hiệu quả không tốt, hiệu quả thấp. Đó là điều cực kỳ đáng lo ngại bởi vì hiệu
quả không tốt, hiệu quả thấp làm cho tình hình kinh tế - xã hội diễn biến như
thế nào, đời sống của quần chúng nhân dân ra sao, chúng ta đều đã biết; các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội - xấu đến mức nào chúng ta cũng đều biết. Đây là điều
làm tôi rất khổ tâm". Ông cho rằng: "Chúng ta đang đứng trước những
thách thức. Tình hình kinh tế - xã hội như thế này là một thách thức. Tình hình
quốc phòng, an ninh có phải là thách thức không? nếu nói “thách thức” thì cũng
có thách thức. Còn tình hình đối ngoại có cái gì là thách thức không? Cũng
có... Nếu chúng ta không suy nghĩ ngày đêm để phấn đấu cho nền kinh tế - xã hội
có chuyển biến, có những bước phát triển để đời sống của nhân dân tốt hơn, đỡ
khổ hơn, nếu chúng ta không làm như vậy, tôi nghĩ là chúng ta không xứng đáng”
Từ đó đã cho chúng ta thấy được nhiệt huyết, tấm
lòng của ông trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước.Với những công lao to lớn
với dân tộc, ông thể đòi hỏi những chế độ cao cấp, những nhu cầu riêng cho bản
thân. Nhưng không, ông vẫn sống lối giản dị, ông cũng luôn sống như Bác Hồ kính
yêu của chúng ta, bữa cơm đạm bạc, những bộ quần áo cũ, mọi thứ không cần sang
trọng cầu kì... không dành quyền lợi riêng cho mình. Luôn hỏi thăm mọi người
xunh quanh, hết lòng với sự nghiệp xây dựng đất nước. Dù khi tuổi già, khi ốm
đau bệnh tật, đôi mắt của ông, với cương vị của ông có thể ra nước ngoài chữa
trị, nhưng ông không đi, ông chỉ uống
thuốc và duy trì.
Ông cũng rất coi trọng trồng người, đào tạo
nhân tài của đất nước ta, ông đã có một câu nói luôn đi sâu mỗi người giáo viên
và sinh viên sư phạm: “Nghề dạy học là nghề cao quý bậc nhất trong những nghề
cao quý”.
Các chiến sĩ bộ đội ngày nay cần phải học tập
những đức tính giản dị, kiên trì, không tự phụ, kiêu ngạo, luôn không ngừng học
tập, dùng sức trẻ. Trí tuệ của mình để giúp ít cho đất nước, nhân dân, không ngại
khó khăn, gian khổ,luôn học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại của chúng ta.
VÕ PHAN NHƯ QUỲNH
Sinh viên lớp sử 1A – Khoa Lịch Sử - ĐHSP Huế
No comments:
Post a Comment